Bản án 151/2019/HSST ngày 14/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 151/2019/HSST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2019/HSST ngày 25 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2019/HSST-QĐXX ngày 01 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Lê Thanh H (H), sinh năm 1983 tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: số 95 đường Đ, phường T, TP.Vũng Tàu, Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Doãn P, sinh năm 1957 và bà Lê Thị Th, sinh năm 1959; Tiền sự: Không;

Tiền án: Tại bản án số 199/2017/HSST ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21-12-2018 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt ngày 22-02-2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt).

Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh, sinh năm 1995; Địa chỉ: E10 hẻm 846 đường B, phường R, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt);

2. Anh Huỳnh Văn T, sinh năm 1990; Địa chỉ: xã Ng, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt);

3. Ông Nguyễn Quốc L, sinh năm 1941; Địa chỉ: 101 đường Th, phường T, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt);4. Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995; Địa chỉ: Số 104 đường H, phường C, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt);

5. Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số 104 đường H,

phường C, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đoàn Minh Th, sinh năm 1992; Địa chỉ: số 72/4 đường T, phường D, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt);

2. Anh Đỗ Văn Th, sinh năm 1995; Địa chỉ: 134/21 đường Ng, phường D, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Lê Thanh H có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, sau khi ra tù không tìm việc làm để sinh sống mà lại tiếp tục đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Lợi dụng sơ hở của các bị hại, từ ngày 05/02/2019 đến ngày 20/02/2019, Hùng đã thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1: Khoảng 04 giờ ngày 05/02/2019, Trần Lê Thanh H đi bộ đến quán Ốc Đêm ở số 30 đường S, phường B, TP.Vũng Tàu thấy không khóa cửa, chỉ có hàng rào lưới B40 chắn ngang trong quán có anh Huỳnh Văn T (sinh năm 1990, HKTT: xã Ng, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai) đang ngủ say, H lén lút chui dưới hàng rào lưới B40 đột nhập vào trong quán rồi lấy trộm 01 chiếc ĐTDĐ hiệu OPPO AR7 màu xanh đang sạc pin của anh T. Sau khi lấy được tài sản, H ra khu vực ngã tư Võ Thị Sáu - Hoàng Hoa Thám rồi bán chiếc ĐTDĐ OPPO cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) được số tiền 500.000 đồng. Số tiền bán được tài sản H sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 50/KL-HDĐG-TTHS ngày 02/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP Vũng Tàu xác định trị giá điện thoại di động hiệu Appo AR7 là 4.500.000 đồng.

Anh T yêu cầu bồi thường 4.500.000 đồng.

Vụ thứ 2: Vào khoảng 08 giờ ngày 07/02/2019, H đến của hàng tạp hóa của ông Nguyễn Quốc L (sinh năm 1941) tại địa chỉ: Địa chỉ: 101 đường Th, phường T, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để mua cà phê. Trong khi đợi ông L pha cà phê thì H thấy cái bóp của ông L đang để trên tủ kính nên đã nhanh tay mở bóp lấy số tiền 700.000 đồng cho vào túi quần. Sau khi lấy trộm được tiền, H đi đến quán game bắn cá địa chỉ 103A đường T, phường T, TP Vũng Tàu để chơi game bắn cá. Khoảng 09 giờ cùng ngày, ông L phát hiện mất tiền và nghi ngờ H là người đã lấy trộm nên hai vợ chồng ông L đi đến tiệm game bắn cá gặp H yêu cầu trả lại số tiền nếu không sẽ báo cơ quan Công an. Bị phát hiện và sợ nên H đã trả lại số tiền 700.000 đồng cho ông L.

Vụ thứ 3: Khoảng 19 giờ ngày 14/02/2019, Trần Lê Thanh H đi bộ đến chùa Linh Sơn Cổ Tự số 104 đường H, phường C, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, khi vào dãy phòng ngủ của phật tử trong chùa thì phát hiện trong phòng của anh Nguyễn Ngọc H (sinh năm 1995 - quản lý chùa Linh Sơn Cổ Tự) có 01 chiếc ĐTDĐ hiệu Apple Iphone 8 Plus 256 GB màu nâu và 01 chiếc ĐTDĐ hiệu Apple Iphone X 256 GB màu đen. Thấy không có người trông coi tài sản, H lén lút lấy trộm 2 chiếc ĐTDĐ rồi nhanh chóng tẩu thoát ra ngoài đường Hoàng Hoa Thám, đồng thời H nhấn tắt nguồn 2 chiếc ĐTDĐ nhằm tránh bị phát hiện. Trên đường, H thấy chiếc xe ô tô taxi Vinasun biển số: 51F – 728.80 do Đoàn Minh Th (sinh năm 1992, HKTT: xã M, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, trú tại: 72/4 đường T, phường D, TP Vũng Tàu) - lái xe, H đón xe và yêu cầu Th chở đến tiệm có thu mua điện thoại di động. Khi biết H cần bán ĐTDĐ nên Th xin coi bên ngoài 2 chiếc ĐTDĐ và hỏi H có bán không và H đồng ý bán cho Th 02 chiếc điện thoại trên với giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua bán xong, Th có hỏi H 2 chiếc ĐTDĐ ở đâu mà có thì H nói là của nhà cho. Sau đó, Th mang 2 chiếc ĐTDĐ hiệu Iphone đến tiệm ĐTDĐ số 58 đường K, phường A, TP Vũng Tàu để Đỗ Văn Th (sinh năm: 1995, trú tại: 134/21 đường Ng, phường D, TP Vũng Tàu) kiểm tra máy còn xài được hay không, thì Th nói bị dính mật khẩu màn hình và có Icloud nếu muốn sử dụng phải mang lên TPHCM sửa với giá 4 triệu/01 máy. Do không có tiền, nên Th bán 02 chiếc ĐTDĐ 8 plus và Iphone X cho Th với số tiền 11 triệu. Sau này Th cũng bán lại 02 chiếc ĐTDĐ trên cho 01 người thanh niên trên mạng Intrernet (chưa rõ lai lịch) với số tiền 13 triệu đồng. Còn H sử dụng hết số tiền 1.500.000 đồng vào việc chơi game bắn cá.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 48/KL-HDĐG-TTHS ngày 02/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP Vũng Tàu xác định trị giá điện thoại di động hiệu Apple Iphone X là 18.500.000 đồng và Apple Iphone 8 Plus là 18.500.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 37.000.000 đồng.

Anh Nguyễn Ngọc H không yêu cầu bồi thường.

Vụ thứ 4: Khoảng 11 giờ sáng ngày 19/02/2019, Trần Lê Thanh H tiếp tục đi đến chùa Linh Sơn Cổ Tự số 104 đường H, phường C, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tìm tài sản sơ hở của người khác để trộm cắp. H đi vào dãy phòng ngủ của phật tử trong chùa thì phát hiện trong phòng của anh Nguyễn Thanh B (sinh năm 1988 - Tu sĩ chùa Linh Sơn Cổ Tự) thấy 01 chiếc ĐTDĐ hiệu Apple Iphone 6 màu vàng để trong phòng và không ai trông coi nên H lén lút vào lấy trộm tài sản, lúc này H nhấn tắt nguồn nhưng không được do máy bị “treo”. Trên đường tẩu thoát, H gọi điện thoại cho Đoàn Minh Th đến Cây xăng trên đường Hoàng Hoa Thám – Nguyễn Trường Tộ. Khoảng 30 phút Th đến thì H nói “có người bạn nhờ bán giùm” nhưng máy bị treo và hỏi Th có mua không. Th kiểm tra máy thì đúng là máy bị hư nên Th mua với giá 300.000 đồng. Đến chiều cùng ngày, Th mang chiếc ĐTDĐ hiệu Apple Iphone 6 đến tiệm ĐTDĐ ở 58 đường K, phường A, TP Vũng Tàu để Đỗ Văn Th kiểm tra thì Th báo máy bị chập và “treo” máy nặng không xài được nên cũng mua lại với giá 300.000 đồng. Sau này, Th bán chiếc ĐTDĐ Iphone 6 cho một người khách (không rõ lai lịch) với số tiền là 300.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 49/KL-HDĐG-TTHS ngày 02/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP Vũng Tàu xác định trị giá điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6 là 2.280.000 đồng.

Anh Nguyễn Thanh B không yêu cầu bồi thường.

Vụ thứ 5: Khoảng 13 giờ ngày 20/02/2019, Trần Lê Thanh H đi bộ đến tòa nhà Prudential, địa chỉ: số 102 A đường P, phường E, TP Vũng Tàu tìm tài sản sơ hở để trộm cắp, H đi lên lầu 4 của tòa nhà bằng lối cầu thang bộ nhằm tránh bị phát hiện, đi ngang văn phòng công ty TNHH TMXD An Gia thì thấy mở cửa nhưng không có ai trong phòng, đồng thời thấy có 01 chiếc túi xách để trên bàn; lúc này H lén lút vào trong phòng rồi nhanh tay lấy trộm cái ví trong túi xách của chị Nguyễn Thị Tuyết Nh, sau đó H nhanh chóng đi xuống bằng lối cầu thang bộ để tẩu thoát. Kiểm tra bên trong ví H phát hiện có số tiền 3.000.000 đồng, 01 thẻ ATM của ngân hàng Viettinbank, 01giấy phép lái xe, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị Tuyết Nh và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy biển số 72D1-273.03 tên Nguyễn Y B. H sử dụng hết số tiền lấy trộm được vào việc chơi game bắn cá, còn chiếc ví cùng giấy tờ của chị Nh thì H cất giấu trong người.

Tại kết luận định giá tài sản số: 51/KL-HDĐG-TTHS Ngày 02/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP Vũng xác định trị giá chiếc ví (bóp) màu xanh rêu có nhãn hiệu Juno của chị Nh bị chiếm đoạt là 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chị Nh bị chiếm đoạt là 3.050.000 đồng.

Cơ quan điều tra thu giữ 01 ví da màu xanh bên trong có 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 72D1-27303 tên Nguyễn Y B; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thị Tuyết Nh; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Tuyết Nh, 01 thẻ Vingroup; 01 thẻ rạp Cgv, hiện đã trả lại cho chị Nh. Chị Nh nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại cơ quan điều tra, Trần Lê Thanh H khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình Đối với Đoàn Minh Th: Khẳng định có mua hai chiếc Iphone X và Iphone 8 Plus từ H với số tiền là 1.500.000 đồng nhưng tại thời điểm mua Th không biết tài sản do H trộm cắp mà có mà nghĩ là điện thoại di động kiểu loại Trung Quốc nên bán rẻ, đến khi Đỗ Văn Th báo có dính mật khẩu và Icloud thì Th mới nghi vấn tài sản do H nhặt hoặc do trộm cắp mà có. Đến ngày 19/02/2019, Th có tiếp tục mua chiếc ĐTDĐ hiệu Iphone 6 thì H nói là tài sản do bạn nhờ bán giùm Th mở lên kiểm tra nhưng máy bị treo (không mở lên thông tin của máy) nên Th không biết tài sản do trộm mà có nên chỉ mua “xác máy” với số tiền 300.000 đồng.

Đi với Đỗ Văn Th khai nhận: Tuy biết 2 chiếc ĐTDĐ hiệu Iphone X và Iphone 8 plus do Th bán là mắc tiền và bị dính icloud nhưng Th không nói về nguồn gốc tài sản, đồng thời tại cơ sở có rất nhiều trường hợp đến báo lỗi máy vì dính icloud hoặc bán máy do lỗi icloud nên Th mua 2 chiếc máy đúng giá theo thị trường.

Cơ quan điều tra xác định Đoàn Minh Th và Đỗ Văn Th: Tại thời điểm mua khai không biết rõ tài sản là do H trộm cắp mà có nên chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự .

Bản cáo trạng số 150/CT-VKS ngày 20-7-2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố: Trần Lê Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Vũng Tàu giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Lê Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 173; điểm s, r khoản 1 Điêu 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Lê Thanh H mức án từ 03 đến 04 năm tù Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Huỳnh Văn T 4.500.000 đồng.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiêm sát truy tố đúng tội danh; bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong thời gian từ ngày 05/02/2019 đến ngày 20/02/2019, trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, Trần Lê Thanh Hùng lợi dụng sơ hở của các bị hại thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản (gồm tiền, điện thoại) với tổng trị giá tài sản là 47.530.000 đồng của các bị hại gồm: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh, anh Huỳnh Văn T, anh Nguyễn Quốc L, anh Nguyễn Ngọc H và anh Nguyễn Thanh B. Trong 05 vụ trộm cắp tài sản nói trên, có 04 vụ giá trị tài sản chiếm đoạt trên 2.000.000 đồng; bị cáo đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản; bị cáo không có nghề nghiệp, sống nhờ từ những số tiền bán tài sản trộm cắp mà có. Vì vậy, hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương, gây tâm lý bức xúc cho nhân dân trong cộng đồng dân cư. Bị cáo biết rất rõ hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cân xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự 2015; Bị cáo thực hiện 05 vụ trộm cắp, trong đó có 04 vụ giá trị tài sản trên 2.000.000 đồng nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; khi bị bắt bị cáo đã tự nguyện khai báo về các lần thực hiện trộm cắp khác chưa bị phát hiện vì vậy áp dụng điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Quốc L, anh Nguyễn Ngọc H, chị Nguyễn Thị Tuyết Nh và anh Nguyễn Thanh B không yêu cầu bị cáo bồi thường; anh Huỳnh Văn T yêu cầu bị cáo bồi thường 4.500.000 đồng Xét yêu cầu của anh Huỳnh Văn Tlà có căn cứ và hợp pháp, tại phiên tòa bị cáo chấp nhận bồi thường cho anh Huỳnh Văn T nên cần căn cứ vào Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; các Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015 buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho anh Huỳnh Văn T 4.500.000 đồng.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Bị cáo Trần Lê Thanh H (H) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 173; điểm s, r khoản 1 Điêu 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt: Bị cáo Trần Lê Thanh H (H) 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 02 năm 2019.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; các Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015 buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho anh Huỳnh Văn Tiến số tiền 4.500.000 đ (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đông ) án phí hình sự sơ thẩm và 225.000 đ (hai trăm hai mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai, để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2019/HSST ngày 14/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:151/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về