Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 23/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số: 334/2017/TLST-HNGĐ ngày 23/10/2017 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/01/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Cẩm V, sinh 1990 (có mặt).

Địa chỉ: ấp P, xã T, huyện T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh 1990 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T, thị trấn O, huyện T, An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên nguyên đơn chị Lê Thị Cẩm V trình bày: Chị với anh Nguyễn Văn H chung sống với nhau từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc có một con chung tên Nguyễn Thị Cẩm T, sinh ngày 08/8/2010. Nhưng đến năm 2012 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, nguyên nhân do anh H có người phụ nữ khác; vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2012 cho đến nay.

Nay chị xin được ly hôn với anh H. Về quan hệ con chung chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung không có chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H: Kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh H đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

 [1] Bị đơn anh Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử thấy, có căn cứ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, xét xử vắng mặt anh H.

 [2] Do mai mối và được cha, mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới, năm 2009 chị Lê Thị Cẩm V với anh Nguyễn Văn H tự nguyện chung sống với nhau được Ủy ban nhân dân thị trấn O, huyện T, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 130 ngày 12/10/2010. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [3] Xét yêu cầu của chị Lê Thị Cẩm V, thấy: Vợ chồng chị V và anh H chung sống với nhau, có thời gian hạnh phúc và đã có con chung; tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng nên đã sống ly thân từ năm 2012 cho đến nay; kể từ khi sống ly thân đến nay chị V với anh H không gặp nhau, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau. Ngoài lời trình bày của chị V, điều này còn được thể hiện, kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành thông báo hòa giải nhằm mục đích động viên, hàn gắn nhưng anh H đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng với chị V để xây dựng hạnh phúc gia đình và chăm sóc, giáo dục con chung. Căn cứ Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy, tình nghĩa vợ chồng giữa chị Lê Thị Cẩm V với anh Nguyễn Văn H không còn, tình trạng hôn nhân đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Cẩm V.

 [4] Xét về quan hệ con chung, thấy: Cháu Nguyễn Thị Cẩm T, sinh ngày 08/8/2010 được chị Lê Thị Cẩm V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục từ khi chị V và anh H ly thân cho đến nay, ngoài ra tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/12/2017 cháu T cũng có nguyện vọng được sống chung với chị V khi chị V và anh H ly hôn, để ổn định cuộc sống và đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu T. Hội đồng xét xử xét thấy, có căn cứ áp dụng Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Nguyễn Thị Cẩm T cho chị V tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

 [5] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chị Lê Thị Cẩm V là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị Cẩm V.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Cẩm V ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về quan hệ con chung:

- Giao con chung tên Nguyễn Thị Cẩm T, sinh ngày 08/8/2010 (hiện đang sống với chị Lê Thị Cẩm V) cho chị Lê Thị Cẩm V trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Anh Nguyễn Văn H có nghĩa vụ tôn trọng quyền của cháu T được sống chung với chị V và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị V không được cản trở.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Cẩm V chịu 300.000 đồng, được trừ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000641 ngày 23/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.

Chị Lê Thị Cẩm V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tuyên án; anh Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân thị trấn O, huyện T, An Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 23/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:15/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về