Bản án 15/2018/HSST ngày 22/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 15/2018/HSST NGÀY 22/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 03 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy H, sinh ngày 29 tháng 8 năm 1983; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn R, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Thị H; có vợ là Nguyễn Thị H và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21 tháng 11 năm 2017 đến ngày 12 tháng 01 năm 2018 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương, “ Có mặt”.

2. Quách Văn T, sinh ngày 02 tháng 10 năm 1991; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quách Văn S và bà Phan Thị X; có vợ là: Phan Thị B và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21 tháng 11 năm 2017 đến ngày ngày 12 tháng 01 năm 2018 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương, “ Có mặt”.

3. Bùi Minh T, sinh ngày 13 tháng 4 năm 1991; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân T và bà Quách Thị Đ; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21 tháng 11 năm 2017 đến ngày 12 tháng 01 năm 2018 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương, “ Có mặt”.

4. Nguyễn Đức H, sinh ngày 07 tháng 2 năm 1979; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn M, xã B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn P và bà Trương Thị T; có vợ là Nguyễn Thị S và có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15 tháng 01 năm 2018, hiện đang tại ngoại tại địa phương, “ Có mặt”.

Hoạt động bản thân: Tháng 2 năm 1998 nhập ngũ đóng quân tại trung đoàn 82- Quân khu 2 thuộc tỉnh Điện Biên đến tháng 2 năm 2000 xuất ngũ về địa phương.

- Nguyên đơn dân sự:

1.Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C.

Địa chỉ trụ sở chính: Khu I, P30, Khu đô thị B, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Người đại diện theo pháp luật của công ty: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1985, chức danh giám đốc, “ Vắng mặt”.

2.Công ty cổ phần đầu tư xây dựng số 02 tỉnh Y

Địa chỉ trụ sở chính: Phố H, phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

Người đại diện theo pháp luật của công ty: Ông Dư Văn G, chức danh: Giám đốc.

Người đại diện hợp pháp của ông Dư Văn G là ông Nguyễn Chiến T, sinh năm 1983, “ Vắng mặt”.

Cư trú tại: Số nhà 32, Phố H, phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

Người tham gia tố tụng khác:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1981, “ Vắng mặt”. Cư trú tại: Thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; Người làm chứng:

1. Anh Vũ Văn Đ, sinh năm 1982, “ Vắng mặt”.

Cư trú tại: Thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc;

2. Anh Đào Quang V, sinh năm 1985, “ Vắng mặt”. Cư trú tại: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do trước đó Nguyễn Duy H có nói chuyện với Quách Văn T hiện đang thuê trọ tại nhà H, là công nhân đang thi công xây dựng tại công trường khu công nghiệp Thăng Long 3 thuộc địa phận xã Thiện Kế, Bình Xuyên và biết được trong kho để vật tư của các công ty trong khu công nghiệp Thăng Long 3 có nhiều tài sản máy móc, thiết bị không có người trông coi, nên khoảng 22h00' ngày 15 tháng 11 năm 2017, sau khi đi uống rượu về nhà, Nguyễn Duy H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong khu công nghiệp Thăng Long 3 để kiếm tiền sử dụng cá nhân nên rủ Quách Văn T đi trộm cắp tài sản trong khu công nghiệp Thăng Long 3, Nguyễn Duy H nói “Đi lấy đồ trong công trường khu công nghiệp Thăng Long 3 đi”, ý bảo Quách Văn T đi trộm cắp tài sản trong công trường khu công nghiệp Thăng Long 3, Quách Văn T hiểu ý và đồng ý. Sau đó Quách Văn T rủ Bùi Minh T là bạn ở cùng phòng trọ với Quách Văn T cùng đi trộm cắp, Quách Văn T nói “Đi lấy trộm ít đồ đi”, Bùi Minh T đồng ý. Sau đó, Nguyễn Duy H gọi điện thoại cho Nguyễn Đức H bảo “Sang nhà em nhờ tí việc”. Nguyễn Đức H đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu FAVOUR màu đỏ đen BKS: 88H9-4580 của Nguyễn Đức H đi đến nhà Bùi Văn H thì gặp Quách Văn T, Bùi Minh T, Bùi Minh T và Nguyễn Duy H. Tại đây Nguyễn Duy H nói với Nguyễn Đức H “Đi chở hộ em ít đồ”, Nguyễn Đức H đồng ý. Sau đó Nguyễn Duy H bảo Quách Văn T lên xe mô tô của Nguyễn Đức H chỉ đường cho Nguyễn Đức H đi đến khu công nghiệp Thăng Long 3 còn Bùi Văn H, Bùi Minh T đi bộ tắt qua cánh đồng đến khu công nghiệp Thăng Long 3, cả hai đi vào bên trong công trường thì phát hiện kho để vật tư của Công ty Cổ phần Xây dựng số 2 Y có địa chỉ ở phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái ở do ông Dư Văn G, làm giám đốc đang thi công, không có người trông giữ, Nguyễn Duy H và Quách Văn T dùng tay cạy tấm tôn ở cửa kho nhưng không được, khi cạy phát ra tiếng động lớn nên lúc này Nguyễn Đức H điều khiển xe mô tô chở Quách Văn T đến đầu đường lớn trong khu công nghiệp Thăng Long 3 cách kho để vật tư của Công ty Cổ phần Xây dựng số 2 Y khoảng 100m thì nghe thấy tiếng động nên Quách Văn T bảo Nguyễn Đức H đứng ở ngoài chờ còn Quách Văn T đi vào trong gặp Nguyễn Duy H và Bùi Minh T. Quách Văn T lấy 01 thanh sắt dài khoảng 20cm đường kính 1,4cm có sẵn ở cạnh kho chứa đồ cạy phá khóa cửa kho làm khóa cửa bị bung ra, sau đó Quách Văn T vứt thanh sắt đi rồi cùng Nguyễn Duy H, Bùi Minh T vào trong kho phát hiện thấy có 01 chiếc máy phát điện nhãn hiệu Lutian màu vàng đã cũ để trên chiếc xe lôi ngay trước cửa vào lán, 01 máy bơm nước nhãn hiệu Shinil màu đỏ đã cũ, 01 máy khoan tay nhãn hiệu BOSCH màu xanh đã cũ ở trong kho. Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T khiêng máy phát điện ra bên ngoài được khoảng 20m nhưng do máy phát điện nặng nên cả ba bỏ xuống đất. Quách Văn T đi bộ ra chỗ Nguyễn Đức H đang đứng đợi ở bên ngoài đường lớn để bảo Nguyễn Đức H đi xe mô tô vào trong để chở máy phát điện. Lúc này khoảng 23h cùng ngày, thấy Quách Văn T ra, do nghi ngờ Quách Văn T, Nguyễn Duy H và Bùi Minh T đang trộm cắp tài sản nên Nguyễn Đức H hỏi Quách Văn T: “Các chú lấy đồ trong công trường à”, ý nói Quách Văn T, Nguyễn Duy H và Bùi Minh T trộm cắp tài sản, Quách Văn T trả lời “Vâng, anh H sợ nói với anh trước anh không đi, anh vào chở hộ cái máy phát”.  Nguyễn Đức H đồng ý sau đó không nổ máy xe mô tô và không bật đèn chiếu sang để tránh bị phát hiện rồi cùng Quách Văn T đi vào vị trí Nguyễn Duy H và Bùi Minh T đang đứng đợi. Thấy Nguyễn Đức H đến, Nguyễn Duy H nói với Nguyễn Đức H: “Anh chở hộ em chiếc máy phát gửi nhà ai giúp em với”. Nguyễn Đức H đồng ý, sau đó Bùi Văn H, Quách Văn T, Bùi Minh T vác chiếc máy phát lên xe mô tô của Nguyễn Đức H rồi sau đó Nguyễn Đức H tiếp tục dắt xe mô tô còn Quách Văn T đi đằng sau giữ máy phát điện đi ra ngoài đường lớn rồi nổ máy đi đến nhà anh Vũ Văn Đ là bạn của Nguyễn Đức H. Do anh Vũ Văn Đ không có ở nhà nên Nguyễn Đức H điện thoại nói với anh Đ “Cho anh gửi nhờ cái máy phát”, do có quen biết từ trước nên anh Đ trả lời “Vâng”. Nguyễn Đức H cùng Quách Văn T chuyển máy phát điện để tại bãi đất trống phía trong cổng nhà anh Đ.

Trong lúc Nguyễn Đức H và Quách Văn T mang máy phát điện đi gửi thì Nguyễn Duy H và Bùi Minh T tiếp tục quay lại công trường, phát hiện cách kho để vật tư của Công ty Cổ phần Xây dựng số 2 Y khoảng 50m là kho để vật tư của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Toàn Thắng R&C có địa chỉ ở phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa do anh Nguyễn Văn T làm giám đốc đang thi công không có ai trông coi, Bùi Minh T nhặt 01 thanh sát dài khoảng 30cm đường kính 14mm cạy phá cửa kho, sau đó Bùi Minh T và Nguyễn Duy H vào trong kho phát hiện có 01 máy hàn điện nhãn hiệu LG màu cam đã cũ, 01 máy cắt gỗ nhãn hiệu Maktec màu đỏ, 01 máy khoan tay nhãn hiệu Kingtony màu đen đã cũ, 01 máy cắt sắt màu vàng đen đã cũ ở phía góc tường bên phải hướng vào kho thì Nguyễn Duy H và Bùi Minh T tiếp tục lấy các tài sản này. Sau khi Nguyễn Duy H, Bùi Minh T mang những tài sản trộm cắp ra đầu đường lớn thì Nguyễn Duy H có gọi điện cho Nguyễn Đức H được biết lúc này Nguyễn Đức H và Quách Văn T đi xe mô tô quay về đến cổng khu công nghiệp Bình Xuyên II thì hết xăng nên Nguyễn Duy H bảo Nguyễn Đức H gửi xe vào cổng khu công nghiệp Bình Xuyên II và gọi xe taxi đến cổng KCN Bình Xuyên 2 đón Nguyễn Đức H và Quách Văn T quay lại KCN Thăng Long 3. Khi Nguyễn Đức H, Quách Văn T đi taxi đến, Nguyễn Duy H, Bùi MinhT mang toàn bộ số tài sản vừa trộm cắp được để trong cốp xe taxi rồi đến nhà anh Đào Quang V là anh họ của  Nguyễn Duy H đang bán đồ ăn đêm. Gặp V thì Nguyễn Duy H nói “Anh cho em gửi ít đồ, em chuyển công trình”, V đồng ý để Nguyễn Duy H, Bùi Minh T và Quách Văn T xách tài sản trộm cắp trên xe taxi xuống để ở góc sân nhà anh V rồi ăn đêm ở quán nhà anh V xong tất cả đi về nhà.

Đến khoảng 11h00' ngày 16 tháng 11 năm 2017 Nguyễn Duy H gọi điện cho Nguyễn Đức H bảo H tìm chỗ bán máy phát điện, do nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật nên Nguyễn Đức H đến nhà Đ lấy máy phát điện mang đến cơ quan Công an giao nộp và trình bày toàn bộ sự việc. Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã thu giữ chiếc máy phát điện và chiếc xe mô tô BKS 88H9-4580 của Nguyễn Đức H.

Đến khoảng 20h30’ ngày 17 tháng 11 năm 2017, Nguyễn Duy H gọi điên cho Nguyễn Văn C là bạn Nguyễn Duy H và nói “tôi đang có 01 máy cắt sắt, 01 máy hàn, 01 máy khoan bạn có muốn mua không”, C đồng ý. Sau đó Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và C đến quán ăn đêm của anh V, gặp V Nguyễn Duy H nói “Cho em lấy ít đồ hôm trước gửi”, V nói “Ừ”, sau đó Nguyễn Duy H lấy chiếc máy hàn điện nhãn hiệu LG màu cam đã cũ, máy khoan tay nhãn hiệu Kingtony màu đen và máy cắt sắt nhãn hiệu Bohai màu vàng bán cho C với giá 2.000.000đ. Số tiền bán máy có được, Nguyễn Duy H chia cho Quách Văn T 500.000đ, Bùi Minh T 500.00đ; số tiền này Nguyễn Duy H, Bùi MinhT và Quách Văn T đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Quá trình điều tra, tại cơ quan điều tra, Nguyễn Duy H, Bùi Minh T, Quách Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Ngày 18 tháng 11 năm 2017, công Công an huyện Bình Xuyên đã thu giữ 01 chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Shinil, 01 máy cắt gỗ nhãn hiệu Maktec, 01 máy khoan nhãn hiệu Bosch mà Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T, trộm cắp được tại nhà V, đồng thời thu giữ 01 máy hàn điện nhãn hiệu LG màu cam đã cũ, 01 máy khoan tay nhãn hiệu Kingtony màu đen và 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Bohai màu vàng do Nguyễn Văn C giao nộp.

Ngày 21 tháng 11 năm 2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Bình Xuyên đã Quyết định trưng cầu định giá tài sản số 11 trưng cầu Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên định giá tài sản bị mất trộm.

Tại bản kết luận định giá số 92 ngày 21 tháng 11 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên, kết luận: 01 máy phát điện giá 3.000.000 đồng; 01 máy khoan cầm tay nhãn hiệu Bosch giá 283.333 đồng; 01 máy bơm nước nhãn hiệu Shinil giá 316.666 đồng; 01 máy khoan cầm tay nhãn hiệu Kingtony giá 350.000 đồng; 01 máy cắt gỗ nhãn hiệu Maktec giá 383.333 đồng; 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Bohai giá 766.666 đồng; 01 máy hàn điện nhãn hiệu LG giá 966.666 đồng. Tổng giá trị tài sản trộm cắp theo quyết định trưng cầu là: 6.066.664 đồng.

Các bị can Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T, Nguyễn Đức H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các bị can Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T, Nguyễn Đức H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải; các bị can đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra bị can Nguyễn Đức H còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là đã tự thú, bản thân bị can Nguyễn Đức H có thời gian tham gia phục vụ quân đội nhân dân Việt Nam, bị can Quách Văn T có bố đẻ là ông Quách Ngọc S có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang.

Quá trình điều tra, ông Dư Văn G giám đốc công ty cổ phần xây dựng số 2 Y đã ủy quyền lại cho ông Nguyễn Chiến T là cán bộ của công ty tham gia giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn T, Giám đốc công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C trực tiếp tham gia giải quyết vụ án.

Ngày 11 tháng 12 năm 2017, Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại 01 máy khoan tay nhãn hiệu kingtony, 01 máy cắt gỗ nhãn hiệu Maktec, 01 máy hàn điện LG, 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Bohai cho ông Nguyễn Văn T là giám đốc công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C, ngày 17 tháng 01 năm 2018, Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại 01 máy phát điện nhãn hiệu Lutian, 01 máy khoan tay nhãn hiệu Bosch, 01 máy bơm nước nhãn hiệu Shinil cho ông Nguyễn Chiến T. Sau khi nhận lại tài sản, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Chiến T không có yêu cầu đề nghị gì thêm.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 88H9-4580 của Nguyễn Đức H quá trình điều tra xác định là xe của Nguyễn Đức H, ngày 15 tháng 11 năm 2017 Nguyễn Đức H sử dụng để trộm cắp tài sản nên cần tịch thu bán phát mại sung ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc khóa cửa kho để vật tư của công ty công ty cổ phần xây dựng số 2 Y và Giám đốc công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C bị các bị can làm hư hỏng, quá trình điều tra ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Chiến T xác định là tài sản có giá trị nhỏ, khi mua khoảng 50.000đ nên không có yêu cầu đề nghị gì nên không đề cập xử lý.

Đối với anh Vũ Văn Đ, Đào Quang V có hành vi chứa chấp tài sản do trộm cắp mà có nhưng anh Đ và anh V không biết tài sản do Nguyễn Duy H và các bị cáo trộm cắp nên không đề cập xử lý.

Đối với anh Nguyễn Văn C có hành vi tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có nhưng anh C không biết tài sản do Nguyễn Duy H và các bị cáo trộm cắp nên không đề cập xử lý. Đối với số tiền 2.000.000đ anh C đã trả cho Nguyễn Duy H để mua tài sản trộm cắp, quá trình điều tra anh C không có đề nghị các bị can Nguyễn Duy H, Quách Văn T và Bùi Minh T phải trả lại cho anh C, nhưng đây là tài sản do phạm tội mà có nên cần truy thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với chiếc xe taxi Nguyễn Duy H đã gọi để đón Nguyễn Đức H, Quách Văn T và chở các tài sản trộm cắp quá trình điều tra, Nguyễn Duy H và các bị cáo đều không nhớ rõ đặc điểm người lái xe và hãng xe taxi nên không có cơ sở để xử lý.

Bản cáo trạng số 12/CT-VKSBX ngày 12 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và Nguyễn Đức H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và Nguyễn Đức H về tội “ Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h,p khoản 1 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999, riêng bị cáo Nguyễn Đức H áp dụng thêm điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H từ 10 tháng tù đến 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 08 tháng đến 02 năm.

Xử phạt bị cáo Quách Văn T và Bùi Minh T mỗi bị cáo từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách của mỗi bị cáo từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 08 tháng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 06 tháng tù đến 08 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 04 tháng.

Giao các bị cáo cho ủy ban nhân dân nơi các bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Tịch thu bán phát mại sung ngân sách nhà nước 01 chiếc xe mô tô BKS 88H9-4580 của Nguyễn Đức H là công cụ, phương tiện phạm tội.

Truy thu của Nguyễn Duy H 1.000.000 đồng, của Quách Văn T 500.000 đồng , của Bùi Minh T 500.000 đồng là tiền do phạm tội mà có để sung ngân sách nhà nước.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Đại diện cho nguyên đơn dân sự Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình điều tra ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông đã nhận lại toàn bộ tài sản bị các bị cáo trộm cắp, các tài sản còn nguyên vẹn, không bị mất mát hư hỏng, ông không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đại diện cho nguyên đơn dân sự Công ty cổ phần đầu tư xây dựng số 2 Y ông Nguyễn Chiến T vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình điều tra ông Nguyễn Chiến T trình bày: Ông đã nhận lại toàn bộ tài sản bị các bị cáo trộm cắp, các tài sản còn nguyên vẹn, không bị mất mát hư hỏng, ông không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Anh Nguyễn Văn C vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình điều tra anh Nguyễn Văn C trình bày: Do có nhu cầu sử dụng nên anh đã mua của Nguyễn Duy H 01 máy cắt sắt, 01 máy hàn, 01 máy khoan với giá 2.000.000 đồng, khi mua anh Nguyễn Văn C không biết đó là tài sản trộm cắp, anh đã giao nộp cho cơ quan điều tra các tài sản trên. Nay anh không yêu cầu các bị cáo phải trả cho anh khoản tiền 2.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét thấy tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và Nguyễn Đức H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau: Khoảng 23h00' ngày 15 tháng 11 năm 2017, tại khu công nghiệp Thăng Long 3 thuộc địa phận xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc Nguyễn Duy H, Quách Văn T, và Bùi Minh T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc máy phát điện nhãn hiệu Lutian màu vàng đã cũ để trên chiếc xe lôi ngay trước cửa vào lán, 01 máy bơm nước nhãn hiệu Shinil màu đỏ đã cũ, 01 máy khoan tay nhãn hiệu BOSCH màu xanh đã cũ trong kho để vật tư của Công ty Cổ phần Xây dựng số 2 Y, trộm cắp 01 máy hàn điện nhãn hiệu LG màu cam đã cũ, 01 máy cắt gỗ nhãn hiệu Maktec màu đỏ, 01 máy khoan tay nhãn hiệu Kingtony màu đen đã cũ, 01 máy cắt sắt màu vàng đen đã cũ trong kho để vật tư của công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C, tổng trị giá tài sản trộm cắp là 6.066.664 đồng. Nguyễn Đức H mặc dù không được bàn bạc từ trước, tuy nhiên khi biết được các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T đang trộm cắp tài sản nhưng vẫn có hành vi dùng xe mô tô BKS 88H9-4580 của Nguyễn Đức H để chở tài sản trộm cắp đi cất giấu, vì vậy Nguyễn Đức H cũng phạm tội trộm cắp tài sản.

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của đại diện nguyên đơn dân sự và những người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Nguyễn Duy H, bị cáo Quách Văn T, bị cáo Bùi Minh T, bị cáo Nguyễn Đức H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

[3] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, song hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Xét vai trò, nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thấy rằng:

Đối với bị cáo Nguyễn Duy H: Với vai trò là người khởi xướng và là người trực tiếp thực hiện trộm cắp tài sản cùng với Quách Văn T và Bùi Minh T, vì vậy bị cáo phải chịu mức hình phạt nặng hơn so với các bị cáo khác. Tuy nhiên xét thấy việc khởi xướng của bị cáo chỉ mang tính chất nhất thời, bột phát do không kiềm chế được lòng tham, bị cáo có nhân thân tốt không phải là người thường xuyên có hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Xét thấy không cần phạt giam mà cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật cho bị cáo được hưởng án treo theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát cũng đủ tác dụng giáo dục giúp bị cáo sửa chữa lỗi lầm.

Đối với bị cáo Quách Văn T và Bùi Minh T: Với vai trò đồng phạm là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, do vậy các bị cáo cũng phải chịu mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, tuy nhiên các bị cáo này đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình, bị cáo Quách Văn T có bố đẻ được tặng thưởng huân chương chiến sỹ vẻ vang nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Trước khi phạm tội các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có chỗ ở ổn định và nơi cư trú rõ ràng, do đó cần xem xét cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật bằng hình thức phạt tù cho hưởng án treo ấn định thời gian thử thách và giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi bị cáo cư trú để quản lý giáo dục trong thời gian thử thách theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người có ích.

Đối với Nguyễn Đức H: Là người không trực tiếp tham gia trộm cắp tài sản nhưng khi biết Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T trộm cắp tài sản vẫn đồng ý chở hộ tài sản trộm cắp đem đi cất giấu, do vậy Nguyễn Đức H cũng phạm tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên sau khi phạm tội đã ra tự thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và được tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, ngoài ra bị cáo còn được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h,p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có thời gian trong quân ngũ 02 năm do vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự. Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C và và Công ty cổ phần xây dựng số 2 Y là anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Chiến T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về vật chứng vụ án và các vấn đề khác:

Đối với chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 88H9- 4580 của Nguyễn Đức H quá trình điều tra xác định là xe của Nguyễn Đức H, ngày 15 tháng 11 năm 2017 Nguyễn Đức H sử dụng để trộm cắp tài sản nên cần tịch thu bán phát mại sung công quỹ nhà nước.

Đối với chiếc khóa cửa kho để vật tư của công ty công ty cổ phần xây dựng số 2 Y và Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Toàn Thắng R&C các bị cáo làm hư hỏng, quá trình điều tra ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Chiến T xác định là tài sản có giá trị nhỏ, khi mua khoảng 50.000đ nên không có yêu cầu đề nghị gì nên không đề cập xử lý.

Đối với anh Vũ Văn Đ, Đào Quang V có hành vi chứa chấp tài sản do trộm cắp mà có nhưng anh Vũ Văn Đ và anh Đào Quang V không biết tài sản do Nguyễn Duy H và các bị cáo trộm cắp nên không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với anh Nguyễn Văn C có hành vi tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có nhưng anh C không biết tài sản do Nguyễn Duy H và các bị cáo trộm cắp nên không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với số tiền 2.000.000đ anh Nguyễn Văn C đã trả cho Nguyễn Duy H để mua tài sản trộm cắp, số tiền này Nguyễn Duy H sử dụng 1.000.000 đồng, chia cho Quách Văn T và Bùi Minh T mỗi người 500.000 đồng, quá trình điều tra anh C không đề nghị các bị cáo phải trả lại cho anh nên không đề cập xử lý, tuy nhiên đây là tiền do phạm tội mà có vì vậy cần truy thu của các bị cáo để sung quỹ nhà nước.

Đối với chiếc xe taxi Nguyễn Duy H đã gọi để đón Nguyễn Đức H, Quách Văn T và chở các tài sản trộm cắp quá trình điều tra, Nguyễn Duy H và các bị cáo đều không nhớ rõ đặc điểm người lái xe và hãng xe taxi nên không có cơ sở để xử lý.

[7] Về án phí sơ thẩm: Buộc các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và Nguyễn Đức H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và Nguyễn Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h,p khoản 1 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999, riêng bị cáo Tùng áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy H 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt: Bị cáo Quách Văn T 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01(Một) năm 02 (Hai) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Minh T 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01(Một) năm 02 (Hai) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h,o,p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Đức H 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Duy H cho ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách, giao bị cáo Quách Văn T và bị cáo Bùi Minh T cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, giao bị cáo Nguyễn Đức H cho ủy ban nhân sân xã B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

Tịch thu bán phát mại sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô BKS 88H9-4580 của Nguyễn Đức H là công cụ, phương tiện phạm tội ( có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/3/2018 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Bình X, tỉnh Vĩnh Phúc).

Truy thu của Nguyễn Duy H 1.000.000 đồng ( Một triệu đồng), truy thu của Quách Văn T 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), truy thu của Bùi Minh T 500.000 đồng ( Năm trăm nghìn đồng) là tiền do phạm tội mà có để sung ngân sách nhà nước.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Duy H, Quách Văn T, Bùi Minh T và Nguyễn Đức H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HSST ngày 22/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về