Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 476/2018/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 476/2019/QĐXX-ST ngày 25 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Thị T, sinh năm 1992

Địa chỉ: Khu Đức Lập, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Hoàng Đình C, sinh năm 1978

Địa chỉ: Khu Đức Lập, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

(Nguyên đơn có mặt; bị đơn anh Chân có đơn xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/12/2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Đình C tự nguyện tìm hiểu và chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước ngày 22/06/2011. Quá trình chung sống hạnh phúc nhưng tới năm 2017 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng có nhiều bất đồng quan điểm sống cả về tính cách lẫn trong đời sống hàng ngày, vợ chồng thường xuyên cãi vã, chửi bới nhau. Hiện nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh C để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh C có 02 người con chung là cháu Hoàng Thị Như Q; sinh ngày 15/12/2011 và cháu Hoàng Đình D, sinh ngày 17/9/2014. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng nuôi cháu Q và anh C nuôi cháu D và không bên nào cấp dưỡng bên nào.

Về tài sản chung: tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: tự thỏa, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án, nguyên đơn chị T cung cấp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản gốc đăng ký kết hôn của UBND xã Đ ngày 22/6/2011;

bn sao chứng minh nhân dân, bản sao hộ khẩu, 02 bản sao giấy khai sinh. Ngoài ra, chị T không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì.

Bị đơn anh Hoàng Đình C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất như chị T trình bày, nay trước yêu cầu ly hôn của chị T anh cũng thống nhất ly hôn. Tuy nhiên anh đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

Về con chung: Anh và chị T có hai người con chung là cháu Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 15/12/2011 và cháu Hoàng Đình D, sinh ngày 17/9/2014, nay anh cũng thống nhất để chị T được nuôi cháu Q, anh nuôi cháu D và không yêu cầu bên nào cấp dưỡng cho bên nào.

Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng có quan điểm:

Đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt anh C vì anh C đã có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Đi với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T.

Về con chung giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Q cho đến khi đủ 18 tuổi. Giao cháu D cho anh C nuôi dưỡng cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng các đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Về nợ chung, tài sản chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thị T và anh Hoàng Đình C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước. Điều này phù hợp với bản gốc giấy chứng nhận kết hôn số 19 ngày 22/6/2011 đã được chị T giao nộp hợp pháp. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh C là hợp pháp.

Về mâu thuẫn gia đình: Theo lời khai của chị T trong quá trình mâu thuẫn chị T và anh C có nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn phát sinh nhiều lần và thường xuyên bắt đầu từ năm 2017 đến nay, vợ chồng thường xuyên chửi bới, cãi vã nhau và cả hai bên đã sống ly thân từ tháng 12/2018 cho đến nay. Trong quá trình sống ly thân thì không bên nào quan tâm đến nhau. Như vậy, mâu thuẫn gia đình là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị T và anh C đều thống nhất ly hôn. Căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận nguyện vọng muốn ly hôn của chị Tiếp.

[2] Về con chung: Có 02 người con chung là cháu Hoàng Thị Như Q sinh ngày 15/12/2011 và cháu Hoàng Đình D, sinh ngày 17/9/2014. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án, chị T và anh C thống nhất giao cháu Q cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, giao cháu D cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Việc anh C và chị T thống nhất thỏa thuận việc nuôi con chung là phù hợp với nhu cầu của các cháu và phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Về cấp dưỡng các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh C, chị T tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự buộc nguyên đơn chị Thúy phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo luật định.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 55; Điều 81; Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Thị T về việc ly hôn. Chị Thị T được ly hôn với anh Hoàng Đình C.

[2] Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Như Q, sinh ngày 15/12/2011 cho chị Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Hoàng Đình D, sinh ngày 17/9/2014 cho anh Hoàng Đình C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh C tự thoả thuận, không yêu cầu toà án giải quyết

[5] Về án phí: Nguyên đơn chị T phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0022493 ngày 07/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

[6] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 03/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về