Bản án 15/2019/HSST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 15/2019/HSST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2019/HSST ngày 12/4/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/QĐXXST-HS, ngày 02/5/2019, đối với bị cáo:

Dương Đình N - Sinh ngày 27/5/1969, tại Bắc Kạn; Nơi cư trú: Tổ 1B, phường Đ, thành phố B, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt nam; con ông Dương Đình Q và bà Phùng Thị T (đã chết); có vợ là Hoàng Thị T và 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Năm 2003 bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn với thời hạn là 12(Mười hai) tháng. Năm 2005 bị TAND thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Năm 2008 bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn với thời hạn là 12(Mười hai) tháng. Năm 2013 bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn với thời hạn là 12(Mười hai) tháng; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/12/2018 đến ngày 26/12/2018. Bị cáo tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8h00’ ngày 17/12/2018, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Bắc Kạn đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 1B phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn thì phát hiện đối tượng Dương Đình N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 20B1-8xx.xx có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra thì phát hiện và tạm giữ tại túi áo khoác bên trái của N đang mặc 02 gói nhỏ được gói bằng giấy lịch, bên trong có chứa chất bột màu trắng, có trọng lượng là 0,19g (Không phẩy mười chín gam), (mẫu gửi giám định A1); tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 20B1- 8xx.xx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Land rover màu xanh đen đã qua sử dụng kèm sim điện thoại Viettel và số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

Tại Cơ quan điều tra Dương Đình N khai nhận: Khoảng 7h30’ ngày 17/12/2018 N mượn xe mô tô BKS 20B1-8xx.xx của anh Lương Văn Đ (là cháu bên vợ của N) để đi mua cám lợn, lúc đó N đang đang tàng trữ trái phép trên người nhưng không nói cho Đ biết, khi N một mình điều khiển xe mô tô của Đ ra khỏi nhà được một đoạn thì bị Công an bắt cùng vật chứng. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do ngày 16/12/2018, N đi xe ô tô khách xuống xã C, huyện P, tỉnh T mua ma túy với một người phụ nữ không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể được 01 gói ma túy (hêrôin) với số tiền là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, N đem về chia thành 02 gói nhỏ cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái để sử dụng cho bản thân thì bị Công an thu giữ.

Tại kết luận giám định số 13/KTHS-MT, ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng có trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại heroin, có khối lượng là 0,19g (Không phẩy mười chín gam).

Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSNDTPBK, ngày 12/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Dương Đình N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Điều luật có nội dung:

1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù một năm đến năm năm.

a,… c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Đình N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38/BLHS, xử phạt bị cáo Dương Đình N từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T13và A2 còn nguyên dấu niêm phong; tạm giữ của bị cáo số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án; trả lại cho bị cáo 01điện thoại nhãn hiệu Land rover màu xanh đen, đã qua sử dụng và 01 sim Viettel số thuê bao 0966794316, có 02 số IMEI 356233523525951và 356233523525969.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Quá trình tranh luận bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 17/12/2018 Dương Đình N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng là 0,19g (Không phẩy mười chín gam) với mục đích để bản thân sử dụng, không nhằm mục đích để mua bán. Do đó hành vi của Dương Đình N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Dương Đình N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Dương Đình N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2003 bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn với thời hạn là 12(Mười hai) tháng; năm 2005 bị TAND thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; năm 2008 bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn với thời hạn là 12(Mười hai) tháng; năm 2013 bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn với thời hạn là 12(Mười hai) tháng. Nhưng Dương Đình N không lấy đó để làm bài học, tu dưỡng rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Bởi vậy cần phải có một mức án thật nghiêm khắc mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và cộng đồng xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Mặt khác bị cáo có bố đẻ là ông Dương Đình Q được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, vì vậy khi lượng hình được xem xét giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51/BLHS.

[3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi. Vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 20B1-8xx.xx, qua điều tra đã xác định được chiếc xe mô tô trên là tài sản của anh Lương Văn Đ, sinh năm 1989, trú tại xóm L, xã T, huyện Đ, tỉnh T (là cháu bên vợ của Dương Đình N) không liên quan đến hành vi phạm tội của Dương Đình N, do đó Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

Số vật chứng còn lại cần được xử lý như sau:

- Tịch thu tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng gồm: 02 phong bì ký hiệu T13và A2 còn nguyên dấu niêm phong.

- Tạm giữ của bị cáo số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu Land rover màu xanh đen cũ có 01 sim Viettel số thuê bao 0966794316, có 02 số IMEI 356233523525951và 356233523525969 đã qua sử dụng. (Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập: Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo Dương Đình N, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh, làm rõ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1, Tuyên bố: Bị cáo Dương Đình N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/ Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Đình N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án. (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/12/2018 đến ngày 26/12/2018).

2,Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng gồm: 02 phong bì ký hiệu T13và A2 còn nguyên dấu niêm phong.

+ Tạm giữ của bị cáo số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Land rover màu xanh đen cũ, đã qua sử dụng, có 01 sim Viettel số thuê bao 0966794316, có 02 số IMEI 356233523525951và 356233523525969.

(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 22/4/2019 và ngày 10/5/2019).

3, Về án phí:

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Dương Đình N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HSST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về