Bản án 15/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 15/2019/HSST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Uông Bí công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 08/2019/HSST ngày 23-01-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 13/QĐXX ngày 13-02-2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành L; Tên gọi khác: ( không có ); sinh ngày: 14/12/1991.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở : Tổ 2B, khu 1, phường T, thành phố Uông Bí ,tỉnh Quảng Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Th; Vợ ; Lê Thị N.

Tiền án tiền sự; Không có.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/11/2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa..

*Người chứng kiến:

+ Anh Bùi Đức Th – sinh năm 1973.

Nơi cư trú: Tổ 1, khu 8, phường S, thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh

Vắng mặt tại phiên tòa.

+ Anh Phạm Văn H – Sinh năm 1971

Nơi cư trú: Tổ 3, khu 9, phường S, thành phố Uông Bí ,tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 00 phút ngày 18/11/2018, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, trong khi làm nhiệm vụ tại Tổ 43A, khu 12, phường T, thành phố Uông Bí đã bắt quả tang Nguyễn Thành L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu tại túi quần phía sau bên phải L đang mặc có 01 túi nilon màu tím, mặt ngoài có chữ nước ngoài, kích thước khoảng (8x6)cm, miệng túi bị rách hở, bên trong 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (3x3)cm, bên trong túi nilon có chứa 02 túi nilon màu trắng cùng kích thước (2x1,5)cm, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng. L khai chất tinh thể màu trắng bị thu giữ là ma túy “đá”, Luân cất giấu mục đích để sử dụng. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, loại máy đứng, màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có 02 sim điện thoại số 0967268339 và 0398555858; số tiền 490.000đ (Bốn trăm chín mươi ngàn đồng) .

Tại bản Kết luận giám định số 711 ngày 21/11/2018 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine; khối lượng: 0,462g (không phẩy bốn sáu hai gam)

Tại Cơ quan điều tra L khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 18/11/2018, L đi xe máy từ nhà sang ngã ba S, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng gặp 01 người đàn ông lái xe ôm không rõ tên, tuổi, hỏi mua 300.000 đồng ma túy của người này mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy L điều khiển xe đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, L đem theo ma túy bắt taxi đi đến quán karaoke C, mục đích để thuê phòng sử dụng ma túy, thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng số 19/KSĐT-HS ngày 21-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L từ 12 ( Mười hai ) tháng tù đến 18 ( Mười tám ) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 18-11-2018.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 711/GĐMT ngày 21-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, .

+ Trả lại bị cáo số tiền 490.000đ ( Bốn trăm chín mươi ngàn đồng ) nhưng tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định, tài liệu, chứng cứ, của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tài liệu chứng cứ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập sử dụng tại phiên tòa của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo Nguyễn Thành Luân:

Lời khai của bị cáo Nguyễn Thành L tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 18-11-2018, tại tổ 43A khu 12 phường T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Thành L có hành vi tàng trữ trái phép 0,462 g (Không phẩy bốn sáu hai gam) ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự phạm tội do lỗi cố ý. Hành vi của vị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Với các chứng cứ, hành vi, của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vây cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo và lời luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hình phạt:

[2.1] Về hình phạt chính

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Tình tiết tăng nặng: Không có

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bản thân bị cáo gia cảnh khó khăn là lao động chính trong gia đình. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3.1] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Thành L là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về đối tượng bán ma túy cho bị cáo.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Thành L, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có cơ sở để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia gắn 2 sim điện thoại số 0967268339 và 0398555858 không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Ngô thị N (là vợ bị cáo L) quản lý.

- Đối với số tiền 490.000 đ( Bốn trăm chín mươi ngàn đồng) không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. 

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’.

Xử phạt: Nguyễn Thành L 12 ( Mười hai ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 18-11-2018.

2. Áp dụng: Điểm akhoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 711/GĐMT ngày 21-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Thành L 490.000đ (Bốn trăm chín mươi ngàn đồng) nhưng tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26-2-2019 giữa Công an TP. Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự TP. Uông Bí).

3. Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Thành L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về