Bản án 152/2018/HS-ST ngày 20/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 152/2018/HS-ST NGÀY 20/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20/6/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 157/2018/TLST-HS ngày 28/5/2018 theo Quyết định  đưa vụ án ra xét xử số:153/2018/QĐXXST-HS ngày 07/6/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Th; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1973, tại Điện Biên.

Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Đội T, xã Thanh L, huyện Điện Điện B, tỉnh Điện B.

Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 6/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn D - SN 1943 và con bà Quàng Thị Ph - SN 1945 (Đã chết); có vợ là Lò Thị D - SN 1973 (Ly thân từ tháng 04/2007) và 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: sử dụng ma túy từ năm 2017; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/4/2018 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 28/4/2018 Lò Văn Th đi bộ từ nhà đến khu vực bản Hua P, xã Thanh L, huyện Đ B với mục đích tìm mua quả thuốc phiện khô đem về chữa đau dạ dày cho bản thân. Khi đến nơi Th gặp một người đàn ông dân tộc H’Mông không biết tên và địa chỉ, bị cáo đã hỏi và mua được của người đàn ông này 10,6 kg quả thuốc phiện khô đựng trong 03 bao tải xác rắn (01 bao màu vàng và 02 bao màu trắng) với giá 550.000 đồng. Sau khi mua được, Th mở các bao tải ra xem rồi buộc lại như cũ và mang về nhà cất giấu trong kho dưới gầm sàn nhà của Th. Hồi 14 giờ ngày 29/4/2018 khi bị cáo đang ở nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Đồn biên phòng Thanh L, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện B vào nhà kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ 03 bao tải nghi là quả thuốc phiện khô tại kho dưới gầm sàn nhà của Lò Văn Th.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 18 giờ 00 phút ngày 29/4/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã xác định: Số vật chứng thu giữ khi bắt quả tang của Lò Văn Th: Bao số 1 có khối lượng là 03 kg, trích mẫu 192,60 gửi giám định; Bao số 2 có khối lượng là 2,6 kg, trích mẫu 136,08 gam gửi giám định; Bao số 3 có khối lượng 05 kg, trích mẫu 114,36 gam gửi giám định. Tổng khối lượng 03 bao là 10,6 kg, trích 03 mẫu có khối lượng là 443,04 gam

Tại Bản kết luận giám định số: 447/GĐ-PC54 ngày 06/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 3 mẫu vật gửi giám định thu giữ của Lò Văn Th là quả thuốc phiện. Hiện tại chưa có cơ sở để xác định quả thuốc phiện là quả khô hay quả tươi.

Tại bản Cáo trạng số: 103/CT - VKSĐB ngày 28/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn Th về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung theo luật số 12/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 (Sau đây gọi là BLHS năm 2015) ;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015; Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn Th từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 10,6 kg gam quả thuốc phiện khô, đã trích 03 mẫu có khối lượng là 443,04 gam, không hoàn lại đối tượng giám định.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Do cần quả thuốc phiên để chữa căn bệnh đau dạ dày của mình nên bị cáo đã đi mua quả thuốc phiện khô cất giấu dưới gầm sàn nhà mình, khi mua xong bị cáo đã kiểm tra các bao tải có chứa các quả thuốc phiện và nhận biết đó là quả thuốc phiện khô. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 29/4/2018 bị cáo Lò Văn Th đã có hành vi tàng trữ 10,6 kg quả thuốc phiện khô với mục đích sử dụng chữa đau dạ dày cho bản thân. Hành vi của bị cáo được chứng minh tại: Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 14 giờ 15 phút ngày 29/4/2015 (BL 01); biên bản niêm phong vật chứng hồi 14 giờ 55 phút ngày 29/4/2018 (BL 02); biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi hồi 18 giờ 00 phút ngày 29/4/2018 (BL 04); Biên bản kiểm tra tình trạng vật chứng hồi 18 giờ 40 phút ngày 29/4/2018 (BL 06); Các biên bản ghi lời khai, bản tự khai do bị cáo viết trong quá trình điều tra.

Bản kết luận giám định số 447/GĐ-PC54 ngày 06/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định: 03 mẫu thực vật gửi giám định là quả thuốc phiện. Hiện tại chưa có cơ sở xác định là quả thuốc phiện khô hay tươi. Tuy nhiên căn cứ vào ý thức chủ quan của bị cáo đã khai nhận là bị cáo mua quả thuốc phiện khô, hành vi của bị cáo đã thực hiện và đã được chứng minh qua các tài liệu có trong hồ sơ và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Căn cứ vào biên bản kiểm tra tình trạng vật chứng hồi 18 giờ 40 phút ngày 29/4/2018 đã kết luận: 10,6 kg quả thuốc phiện thu giữ của Lò Văn Th là quả thuốc phiện khô. Nhận định và xác định vật chứng thu giữ theo hướng có lợi cho bị cáo đủ cơ sở xác định bị cáo đã tàng trữ 10,6 kg quả thuốc phiện khô với mục đích để sử dụng chữa bệnh cho bản thân, ngoài ra không có mục đích gì khác.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể Nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng Nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Ngày 29/4/2018 bị cáo Lò Văn Th đã có hành vi tàng trữ 10,6 kg quả thuốc phiện khô với mục đích sử dụng chữa đau dạ dày cho bản thân. Khối lượng chất ma túy trên thuộc điểm đ khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt từ 01 đến 05 năm tù

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lò Văn Th sinh ra và lớn lên tại Điện Biên đi học hết lớp 06/10 thì bỏ học ở nhà cùng gia đình. Đến năm 1993 xây dựng gia đình với Lò Thị D và có 02 người con. Đến năm 2007 ly thân với Lò Thị D. Tháng 5 năm 2007 chung sống như vợ chồng với Lò Thị S và có 01 người con. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2017. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về nguồn gốc số quả thuốc phiện bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc H’Mông không biết tên, địa chỉ tại bản Hua P, xã Thanh L, huyện Điện Biên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, lại là người sử dụng ma túy nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 10,6 kg quả thuốc phiện khô đã trích mẫu 443,04 gam, không hoàn lại đối tượng giám định.

[7] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điểm đ Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015:

Xử phạt bị cáo: 16 (Mười sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 29/4/2018.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 10,6 kg quả thuốc phiện khô đã trích mẫu 443,04 gam, không hoàn lại đối tượng giám định.

(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên hồi 14 giờ 30 phút ngày 01 tháng 6 năm 2018)

3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 20/6/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 152/2018/HS-ST ngày 20/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:152/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về