Bản án 154/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B TỈNH B

BẢN ÁN 154/2018/HS-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 146/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 155/2018/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Ngọc S, sinh năm 1993; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn Lò, xã T, thành phố B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hoá: 9/12; Con ông: Trịnh Xuân U, sinh năm 1955 (đã chết); Con bà: Đỗ Thị D, sinh năm 1960; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ 1; Vợ: Nguyễn Thị U, sinh năm 1993 (đã ly hôn); Con: có 01 con sinh năm 2012; Nhân thân: Ngày 04/10/2015 C an xã T, thành phố B quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đồng về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác; Ngày 11/10/2015 C an xã T quyết định xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000đồng về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác; Ngày 20/5/2016 C an xã T quyết định xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 15/3/2016 C an thành phố B quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý; Tiền sự: Quyết định số 02 ngày 14/6/2016 Toà án nhân dân thành phố B quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 18 tháng. Chấp hành xong ngày 30/11/2017; Tiền án: không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 30/5/2018, chuyển tạm giam ngày 04/6/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam C an tỉnh B (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1984 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn A, xã Trung S, huyện V, tỉnh B.

- Anh Phạm Văn P, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Địa chỉ: tổ 4, phường M, thành phố B, tỉnh B.

* Người chứng kiến:

- Chị Dương Thị Nho, sinh năm 1975 (Vắng mặt)

Địa chỉ: số nhà 02, ngõ 29, đường N, phường X, thành phố B, tỉnh B.

- Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1976 (Vắng mặt)

Địa chỉ: số nhà 32, ngõ 41A, đường V, tổ D, phường Trần Phú, thành phố B,m tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 05 giờ 45 phút ngày 30/5/2018 tại trước cửa số nhà 33, ngõ 41A, đường V, phường Trần Phú, thành phố B, tỉnh B tổ C tác C an Phường Trần Nguyên Hãn, thành phố B bắt quả tang Trịnh Ngọc S, sinh năm 1993; nơi cư trú: thôn Lò, xã T, thành phố B có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy mặt ngoài nhiều màu, mặt trong màu trắng (dạng giấy lịch) bên trong đựng 05 gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc mặt trong màu trắng, bên trong mỗi gói đều đựng chất cục bột màu trắng, nghi là ma túy Heroine, thu giữ tại dưới đất cạnh chỗ S đứng do S thả xuống.

Ngoài ra còn tạm giữ của Trịnh Ngọc S: 01 xe đạp mi ni màu trắng và số tiền 2.335.000đồng.

Tổ C tác tiến hành niêm phong vật chứng nghi ma tuý vào 01 phong bì thư, đưa S về C an phường Trần Nguyên Hãn lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, bàn giao Trịnh Ngọc S cùng vật chứng cho Cơ quan cảnh sát điều tra C an thành phố B giA quyết.

Kết luận giám định số 675 ngày 01/6/2018 của phòng KTHS C an tỉnh B kết luận: Chất cục bột màu trắng đựng trong 05 gói giấy bạc đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, tất cả được gói bên ngoài bằng giấy mặt ngoài nhiều màu sắc (loại giấy lịch) đều là chất ma tuý Heroine, có tổng khối lượng là 0,372 gam.

Quá trình điều tra, Trịnh Ngọc S khai nhận như sau: Khoảng gần 5 giờ 30 phút ngày 30/5/2018 S đi xe đạp từ nhà đến nhà anh Phạm Văn P, sinh năm 1975 ở tổ 4, phường M, thành phố B để tạm ứng tiền C đi làm số tiền 2.835.000 đồng, S đi có việc khoảng 10 phút sau quay lại nhà anh P thì gặp anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1984 trú tại thôn A Quan, xã Trung S, huyện V, tỉnh B là người cùng làm với S. S rủ anh C đi sang khu vực Chi Ly, phường Trần Phú có việc. Anh C đồng ý. S và anh C mỗi người đi một xe đạp sang khu vực bờ đê Chi Ly, phường Trần Phú thì S đi vào một nhà gần đó mua được 5 gói ma tuý Hêrôin với giá 300.000 đồng, S cầm ở tay trái lên xe đạp đi về thì C đi xe theo sau. Khi đi đến trước cửa số nhà 33 ngõ 41A đường V, phường Trần Phú, thành phố B thì bị tổ C tác C an phường Trần Nguyên Hãn bắt quả tang, do sợ hãi nên S thả rơi gói ma tuý xuống đất gần chỗ đứng nhưng vẫn bị thu giữ.

Người phụ nữ bán ma tuý cho Trịnh Ngọc S, do S khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu nên không đủ căn cứ xác M xử lý.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì thư đựng mẫu vật (ma tuý Hê rô in) hoàn lại sau giám định; 01 xe đạp mi ni màu trắng và số tiền 2.335.000đồng được nhập kho vật chứng để xử lý.

Cáo trạng số 160/CT-VKS ngày 19/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Trịnh Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 - Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trịnh Ngọc S một lần nữa khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu và trình bày: Bị cáo nhận thức hành vi ngày 30/5/2018 của mình là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Văn C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 30/5/2018, anh đang ngủ ở nhà anh Phạm Văn P thì anh Trịnh Ngọc S là người cùng làm thợ với anh tại nhà anh P đến và rủ anh đi sang Chi Ly 1, phường Trần Phú có việc, anh đồng ý. Anh mượn xe đạp mi ni của anh P rồi sau đó anh và anh S mỗi người đi một chiếc xe đạp mini màu trắng đến bờ đê Chi Ly, phường Trần Phú, thành phố B. Đến nơi anh thấy anh S đi vào một nhà cạnh bờ đê, anh vẫn tiếp tục đi thẳng. Khoảng 03 phút sau anh thấy anh S đi ra, anh cũng quay xe lại và cả hai cùng đi về. Khi đi đến trước cửa số nhà 33, ngõ 41A, đường V, tổ dân phố D, phường Trần Phú, thành phố B thì bị lực lượng C an kiểm soát, lúc này anh thấy anh S thả một gói giấy xuống nền đất nơi anh S đứng. Anh S khai đó là ma túy anh vừa mua. Sau đó anh và anh S cùng với vật chứng là ma túy được lực lượng C an đưa về trụ sở làm việc.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Phạm Văn P vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Anh Trịnh Ngọc S và Nguyễn Văn C là thợ làm C trình cho anh. Khoảng hơn 05 giờ sáng ngày 30/5/2018, anh S có đến gặp anh đặt vấn đề ứng trước tiền C làm để lo việc nhà. Anh đồng ý và đưa cho anh S số tiền 2.835.000 đồng. Sau đó anh C có mượn của anh một chiếc xe đạp mini và nói là đi ra ngoài có việc cùng với anh S. Anh S và anh C đi đâu thì anh không biết. Hiện nay, chiếc xe đạp này anh đã được cơ quan C an trả lại, anh không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Người chứng kiến là chị Dương Thị Nho vắng mặt tại phiên toà nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Khoảng hơn 05 giờ ngày 30/5/2018, khi chị đang đi tập thể dục từ nhà ở bờ đê Chi Ly - đầu cầu sắt B. Khi đi đến khu vực bờ đê Chi Ly, phường Trần Phú, thành phố B, chị nhìn thấy một nam thanh niên mặc áo dài tay màu đen, đi xe đạp mini màu trắng đi vào khu vực bên trong nhà dân để mua ma túy còn một nam thanh niên khác đứng trên đê đợi. Chị đã điện thoại báo cho C an phường Trần Nguyên Hãn. Khoảng 2-3 phút sau chị thấy nam thanh niên mặc áo đen đi ra chỗ nam thanh niên đứng đợi rồi cả hai đi xe đạp xuống dốc Chi Ly. Chị đi theo sau khi đi đến trước cửa số nhà 33, ngõ 41A, đường V, tổ D, phường Trần Phú, thành phố B thì lực lượng C an đến và kiểm tra hai nam thanh niên. Quá trình kiểm tra chị thấy lực lượng C an thu giữ tại nền đất chỗ nam thanh niên mặc áo đen đứng một gói giấy bên trong có 05 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong đều có chất cục bột màu trắng. Nam thanh niên này khi đó là ma túy mua về để sử dụng. Sau đó C an niêm phong ma túy vào phong bì và đưa hai nam thanh niên cùng chị về trụ sở làm việc.

Người chứng kiến là chị Nguyễn Thị M vắng mặt tại phiên toà nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Khoảng 06 giờ ngày 30/5/2018, chị đang đứng trước cửa nhà tại số 32, ngõ 41A, đường V, tổ D, phường Trần Phú, thành phố B thì chứng kiến lực lượng C an kiểm soát 02 nam thanh niên. Chị thấy lực lượng C an thu tại nền đất cạnh chỗ nam thanh niên mặc áo đen đứng một gói giấy mở ra bên trong có 05 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong đều có chất cục bột màu trắng. Nam thanh niên này khi đó là ma túy mua về để sử dụng. Sau đó C an niêm phong ma túy vào phong bì và đưa hai nam thanh niên cùng chị về trụ sở làm việc.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1, Tuyên bố bị cáo Trịnh Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

2, Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trịnh Ngọc S từ 16 tháng đến 19 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/5/2018.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 - Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đựng mẫu vật (ma túy Herôin) hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe đạp mi ni màu trắng.

- Trả lại bị cáo số tiền 2.335.000 đồng.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015, điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và kết quả giám định của phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh B, đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 05 giờ 45 phút ngày 30/5/2018 tại trước cửa số nhà 33, ngõ 41A, đường V, phường Trần Phú, thành phố B, tỉnh B tổ C tác C an phường Trần Nguyên Hãn, thành phố B bắt quả tang Trịnh Ngọc S có hành vi tàng trữ trái phép 0,372 gam chất ma túy Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 – Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 146/CT-VKS ngày 19/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo điểm, khoản và điều luật như là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

 [3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Việc tàng trữ các chất ma tuý của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa P, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác và là con đường lây lan nhiều loại bệnh xã hội. Do vậy cần phA xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[3.2] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi chiếm đoạt tài sản, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật, khó giáo dục.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trước cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cA về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phA chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 - Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.5] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện; căn cứ nhân thân và tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: cần phA áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục bị cáo thành người C dân biết tuân thủ pháp luật.

[3.6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 - Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì việc áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là cần thiết để tăng tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo thuộc hộ cận nghèp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để bị cáo yên tâm cA tạo thành người C dân có ích cho xã hội.

[4] Về vật chứng của vụ án:

 [4.1] 01 phong bì thư đựng mẫu vật (ma túy Herôin) hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 – Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[4.2] 01 xe đạp mi ni màu trắng là P tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 47 – Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[4.3] Số tiền 2.335.000 đồng là tiền C làm việc của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 47 – Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[5] Các vấn đề khác:

 [5.1] Người phụ nữ bán ma tuý cho Trịnh Ngọc S, do S khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu nên không đủ căn cứ xác M xử lý.

 [5.2] Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1, Tuyên bố bị cáo Trịnh Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2, Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Ngọc S 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/5/2018.

3, Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 - Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư đựng mẫu vật (ma túy Hê rô in) hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe đạp mi ni màu trắng.

- Trả lại bị cáo số tiền 2.335.000 đồng.  (Vật chứng theo Quyết định chuyển vật chứng số 144/QĐ-VKS ngày 19/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và Biên bản giao nhận tài sản tạm giữ ngày 02/10/2018).

4, Về án phí, quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phA thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:154/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về