Bản án 155/2019/HS-ST ngày 25/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 155/2019/HS-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 161/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2019/QĐ-TA ngày 08 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Châu T; Sinh ngày: 30/12/1993 tại Hà Nội; Nơi đăng ký NKTT và ở: Tổ dân phố số 1, phường M, quận H, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trần Văn L; Sinh năm 1963; Nghề nghiệp: Hưu trí; Con bà: Bùi Thị H; Sinh năm 1967; Nghề nghiệp: Hưu trí; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 74/2009/HSST ngày 27/11/2009 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội cướp tài sản; Bị cáo được đặc xá ngày 30/8/2011; Bị bắt quả tang và giam giữ từ ngày 20/4/2019; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

2. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

2.1. Anh Phùng Văn M, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn 1, xã A, huyện B, thành phố Hà Nội; Vắng mặt tại phiên tòa.

2.2. Bà Bùi Thị T, sinh năm 1967; Địa chỉ: Tổ dân phố số 1, phường M, quận H, thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Ngày 17/4/2019, bị cáo Trần Châu T dùng tài khoản “CanaChau” đăng bán cần sa trên mạng xã hội Facebook. Anh Phùng Văn M dùng tài khoản có tên “Bao Anh Nguyen” nhắn tin đến tài khoản “Cana Chau” của bị cáo T hỏi mua cần sa của bị cáo T, nhưng bị cáo T trả lời không có. Đến ngày 19/4/2019, bị cáo T biết một người bán cần sa trên mạng xã hội Facebook có tài khoản tên là “Minh Đức”. Bị cáo T hỏi mua 200.000 đồng cần sa và hẹn gặp “Minh Đức” tại ngõ Hòa Bình 6, phường 1

Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Sau khi mua được cần sa, bị cáo T mang số cần sa vừa mua được sử dụng một ít, số còn lại cất giấu tại phòng ngủ tại nhà ở tổ dân phố số 1, phường M, quận H, thành phố Hà Nội.

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 20/4/2019, bị cáo T nhắn tin lại vào tài khoản “Bao Anh Nguyen”cho anh M và có mua cần sa nữa không. Anh M đồng ý mua, bị cáo T và M thỏa thuận mua bán 10 gam cần sa giá 400.000 đồng và 100.000 đồng tiền giao hàng, tổng cộng là 500.000 đồng. Anh M hẹn bị cáo T giao nhận cần sa tại cổng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo T điều khiển xe máy BKS: 29H1-20565 đi từ nhà đến cổng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường. Tại đây, bị cáo T dùng số điện thoại 0962.669.529 gọi đến số 0339451776 của M. Khi gặp anh M, bị cáo T dùng tay trái lấy cần sa để trong túi quần phía trước bên trái ra thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ của bị cáo T: Một túi nilong kích thước (5x15)cm bên trong chứa thảo mộc dạng khô; Một xe máy Wave RSX, BKS: 29H1- 20565, màu đỏ đen; Một điện thoại Iphone 6S Plus màu vàng, lắp sim điện thoại số 0962.669.529, số Imei là: 355736070621297. Vật chứng thu giữ của anh Mai: Một điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh, lắp sim số: 0339451776 và 500.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 2541/KLGĐ- PC09 ngày 27/4/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Thảo mộc khô bên trong 01 túi nilong là cần sa, khối lượng 7,307 gam”.

Chiếc xe máy Honda, BKS: 29H1-20565; SK: 657798; SM: 6451594 có chủ sở hữu đứng tên đăng ký xe là bị cáo T, xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Bà Bùi Thị H là mẹ của bị cáo T khai mua chiếc xe máy này vào khoảng tháng 4/2012, bà nhờ bị cáo T đứng tên với lý do bị cáo khỏe mạnh, có thời gian và là người chở bà đi công chuyện. Bà H cho bị cáo T sử dụng để làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo sử dụng xe để đi bán ma túy.

Anh M không nghiện ma túy, đây là lần đầu tiên mua ma túy để về sử dụng, kết quả xét nghiệm của anh M âm tính với chất ma túy, nên không xử lý. Người đàn ông tên trên mạng xã hội Facebook là Đức mà bị cáo mua cần sa, không rõ nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Tại Cáo trạng số 138/CT-VKS, ngày 27/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố bị cáo Trần Châu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Châu T mức án từ 30 đến 36 tháng tù; Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 20/4/2019, tại khu vực gần cổng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường, phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bị cáo Trần Châu T đang có hành vi bán trái phép 7,307 gam cần sa cho anh Phùng Văn M thì bị bắt quả tang cùng vật chứng ; Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với bị cáo được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo biết rõ cần sa là chất gây nghiện, là ma túy làm tổn hại sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe tâm thần, là mầm mống của các loại tội phạm khác. Nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ… trái phép nhưng bị cáo vẫn mua bán để kiếm lời.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Về nhân thân: Tại Bản án số 74/2009/HSST ngày 27/11/2009, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “cướp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 30/8/2011. Theo quy định tại khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình sự, bị cáo bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi nên bản án đã tuyên không phải là căn cứ để tính tái phạm nhưng thể hiện bị cáo đã bị xử phạt, đã được giáo dục bằng pháp luật nhưng vẫn vi phạm

- Hình phạt chính: Đối với bị cáo cần áp dụng hình phạt tù nghiêm, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và tính phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Vật chứng vụ án: 7,307 gam cần sa thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc xe máy Wave RSX, BKS: 29H1-20565, số máy JC43E–6451594; Số khung: RLhJC4325BY657798, chiếc điện thoại di động Iphone 6S Plus màu vàng thu giữ của bị cáo T là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để mua bán ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ. Chiếc điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh và số tiền 500.000 đồng thu giữ của anh Phùng Văn M liên quan đến giao dịch mua ma túy cần tịch thu sung quỹ.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, cơ quan điều tra, điều tra viên, cơ quan kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố theo đúng tội danh, khung hình phạt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Châu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Châu T 27 (Hai mƣơi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2019.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí.

3.1. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy, bên ngoài phong bì có chữ ký của bị cáo T và giám định viên; Tịch thu sung quỹ một xe máy Wave RSX, biển kiểm soát: 29H1- 20565, có số máy JC43E – 6451594, số khung: RLhJC4325BY657798 đã qua sử dụng, một điện thoại di động Iphone 6S Plus màu vàng lắp sim số 0962.669.529, có số Imei: 355736070621297 đã qua sử dụng, một điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh, lắp sim số: 0339451776 đã qua sử dụng và 500.000 đồng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 185/19 ngày 01/7/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm và Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm).

3.2. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2019/HS-ST ngày 25/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:155/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về