Bản án 157/2019/HS-PT ngày 07/11/2019 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 157/2019/HS-PT NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 07 /11/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 191/2019/TLPT-HS ngày 29/8/2019 đối với bị cáo Hoàng Thị N, do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị N đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Thị N, sinh năm 1979. Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Thôn Q, xã L, huyện Y, tỉnh B; Giới tính: Nữ Nơi ở: Thôn T, xã L, Huyện L, tỉnh B;

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Học vấn: 4/12; Con ông: Hoàng Văn Y, sinh năm 1948 ( đã chết).

Con bà: Trần Thị M, sinh năm 1948.

Chồng Nguyễn Xuân B, sinh năm 1971 ( đã ly hôn).

Bị cáo có 2 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2004. Tiền án, tiền sự: Không Gia đình có 6 anh chị em, bản thân là thứ 5.

Nhân thân:

- Ngày 08/01/2009, bị Công an huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi “Mua bán dâm”. Ngày 15/01/2009, N đã chấp hành xong Quyết định trên.

- Tại bản án hình sự số: 55/2009/HS-ST ngày 13/11/2009 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng xử phạt Hoàng Thị N 03 năm tù về tội “Môi giới mại dâm”.

Ngày 29/8/2010, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; Ngày 15/01/2010 bị cáo chấp hành xong hình phạt tiền tịch thu sung công quỹ và tiền án phí HS-ST.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2019 đến ngày 30/01/2019, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại (Có mặt tại phiên toà).

Trong vụ án còn có 03 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 10 phút ngày 04/01/2019, Tổ công tác của Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang tiến hành kiểm tra Nhà nghỉ D thuộc phố Tân An, xã Tân An, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang đã phát hiện tại phòng 201 và 202 của Nhà nghỉ có hai đôi nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm. Cụ thể, tại phòng 201, người mua dâm là Trương Văn T, sinh năm 1989, người bán dâm là Hà Thị V, sinh năm 1988. Tang vật thu giữ: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Doctor chữ đỏ nền trắng đã bị xé rách một góc; Hà Thị V tự nguyện giao nộp số tiền 700.000 đồng (trong đó có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 200.000 đồng). Tại phòng 202, người mua dâm khai nhận là Nguyễn Văn L, sinh năm 1974, người bán dâm là Nguyễn Thị B1, sinh năm 1974. Tang vật thu giữ: 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Doctor màu trắng đã bi xé rách một góc. Ngoài ra, quá trình bắt quả tang tổ công tác còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại wave anpha, màu trắng, biển kiểm soát 98B2-99719, số khung: RUHHC1254FY373058, số máy HC12E7373074 là xe V chở B1 đi bán dâm. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với các đối tượng nêu trên, đồng thời tiến hành niêm phong số vật chứng thu giữ tại các phòng 201, 202 của Nhà nghỉ D theo quy định.

Căn cứ vào lời khai của các đối tượng mua bán dâm thì khoảng 21 giờ ngày 04/01/2019, Hoàng Thị N là chủ quán Cà phê - Karraoke “P” ở Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh B đã môi giới cho Hà Thị V và Nguyễn Thị B1 mua bán dâm với Trương Văn T và Nguyễn Văn L tại Nhà nghỉ D. Hồi 23 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, cơ sở kinh doanh của Hoàng Thị N, sinh năm 1979 tại Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh B. Quá trình khám xét đã phát hiện và thu giữ tại tủ quần áo trong phòng ngủ: 04 hộp nhãn hiệu “TONIHU bao cao su gia đình”, vỏ bên ngoài màu đỏ, bên trong có bao cao su chưa qua sử dụng; 01 quyển hộ chiếu số: B8106422; 01 quyển sổ nhãn hiệu bìa ‘SỔ TỔNG HỢP”, bên trong có ghi chữ và số; thu giữ tại giường ngủ phòng số 03: 01 bao cao su nhãn hiệu “TONIHU” vỏ ngoài đã bị xé.

Ngày 05/01/2019, Hoàng Thị N đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đầu thú và khai nhận về hành vi môi giới mại dâm ngày 04/01/2019 của mình.

Kết quả điều tra đã làm rõ: Khoảng tháng 8/2018, Hoàng Thị N, sinh năm 1979, nơi ĐKHKTT: Thôn Q, xã L, huyện Y, tỉnh B có mở quán kinh doanh Cà phê - Karraoke mang tên “P” tại Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh B. Quá trình kinh doanh Hoàng Thị N có thuê một số nhân viên phục vụ tại quán, trong đó có Hà Thị V, sinh năm 1988 đến làm cho N từ khoảng tháng 10/2018 và Nguyễn Thị B1 (tức Lan), sinh năm 1974, đến làm cho N từ khoảng tháng 12/2018. Do khách đến quán có nhu cầu mua dâm và vì muốn kiếm thêm tiền nên Hoàng Thị N đã thỏa thuận với Hà Thị V và Nguyễn Thị B1 (tức Lan) là ngoài việc phục vụ khách hát, nếu khách đặt vấn đề muốn mua dâm thì N sẽ điều V và B1 đi bán dâm cho khách với giá 300.000 đồng/người/lần bán dâm, V và B1 trực tiếp thu tiền của khách sau đó sẽ chia cho N 150.000 đồng/người/lần bán dâm, Hà Thị V và Nguyễn Thị B1 chỉ được đi bán dâm khi có sự đồng ý của N.

Khoảng 21 giờ ngày 04/01/2019, khi Hoàng Thị N đang ở quán “P” thì có Trương Văn T và Nguyễn Văn L đi xe taxi của anh Nguyễn Quang Huy, sinh năm 1980 trú tại số nhà 372, đường Xương Giang, phường Ngô Quyền, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đến quán và gọi nước uống. T, L, Huy ngồi uống nước được một lúc thì T có nói với N là “ở đây có nhân viên đi không?” (được hiểu là có nhân viên nữ để đi mua bán dâm không) thì N bảo “có”, T bảo N “ Cho hai em nhân viên đi chơi” thì N bảo “ Các em nó đi thì 300.000 đồng/người/lần mua dâm”, T bảo đắt và mặc cả với N là 500.000 đồng cho hai người/lần mua dâm thì N không đồng ý và nói đúng 300.000 đồng/người/lần mua dâm, T đồng ý và trả tiền mua dâm của T và L cho N thì N bảo T đưa tiền cho nhân viên, N cũng bảo T là không bán dâm tại quán mà đi Nhà nghỉ, tiền phòng Nhà nghỉ T và L phải chịu, thì T đồng ý. N yêu cầu T đưa chứng minh thư nhân dân của T cho N để N để kiểm tra, sau khi kiểm tra xong thì N đi ra chỗ Hà Thị V và Nguyễn Thị B1 nói “ Có hai người muốn đi thư giãn, chị kiểm tra chứng minh thư rồi” (được hiểu là có nhu cầu đi mua bán dâm) và bảo B1, V đưa khách ra Nhà nghỉ D của anh Hoàng Văn T, sinh năm 1989 ở số 27, phố Tân An, xã Tân An, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang để bán dâm, trước khi đi N có nói với B1 và V là “ Hai chị em đi đi, xuống đấy hai chị em tự thu tiền”. Sau đó V lấy chìa khóa xe máy nhãn hiệu Honda, loại wave anpha, màu trắng, biển kiểm soát 98B2-99719, số khung: RUHHC1254FY373058, số máy HC12E7373074 của N chở B1 đi trước dẫn đường cho T và L ngồi xe taxi của anh Huy đến Nhà nghỉ D. Đến nơi, V thuê phòng 201, 202 và lấy bao cao su của Nhà nghỉ đưa cho B1, sau đó V và T cùng nhau vào phòng 201 còn B1 và L cùng nhau vào phòng 202 để quan hệ tình dục (mua bán dâm). Tại phòng 201, trước khi quan hệ tình dục T đưa cho V số tiền 700.000 đồng (gồm 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 200.000 đồng), trong đó có 600.000 đồng T trả tiền mua dâm cho T và L, còn 100.000 đồng trả tiền Nhà nghỉ, V nhận số tiền trên và cất vào túi. Khi Hà Thị V và Trương Văn T, Nguyễn Thị B1 và Nguyễn Văn L đang quan hệ tình dục (mua bán dâm) thì bị Tổ công tác của Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang bắt quả tang, thu giữ tang vật như đã nêu trên.

Ngày 05/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã cho Hà Thị V, Nguyễn Thị B1 nhận dạng Hoàng Thị N qua ảnh. Kết quả: V, B1 xác định chính xác N là người đã môi giới để V và B1 đi bán dâm ngày 04/01/2019.

Đối với Hà Thị V và Nguyễn Thị B1 có hành vi bán dâm, vi phạm khoản 1, Điều 23 Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ nên ngày 31/01/2019, Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định xử phạt hành chính.

Đối với Trương Văn T, sinh năm 1989 có hành vi mua dâm, vi phạm khoản 1 Điều 22 Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ nên ngày 31/01/2019, Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định xử phạt hành chính. Về đối tượng mua dâm tự khai là Nguyễn Văn L, sinh năm 1974 trú tại thôn Thanh Xuân, xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, quá trình dẫn giải về Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang để lấy lời khai, lợi dụng sơ hở L đã bỏ trốn. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã xác minh tại xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang nhưng không có đối tượng nào có tên tuổi, địa chỉ như trên nên chưa xử lý được, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Ngày 18/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang có Quyết định chuyển vụ án trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam để điều tra theo thẩm quyền.

Trong vụ án này, anh Nguyễn Quang Huy, sinh năm 1980 trú tại số nhà 372, đường Xương Giang, phường Ngô Quyền, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, là lái xe taxi được Trương Văn T và Nguyễn Văn L thuê chở đi mua dâm. Kết quả điều tra xác định anh Huy không liên quan đến hành vi phạm tội của Hoàng Thị N nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam không đề cập xử lý. Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1989 ở số 27, phố Tân An, xã Tân An, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang đã cho các đối tượng Hà Thị V, Trương Văn T, Nguyễn Thị B1, Nguyễn Văn L thuê phòng, nhưng anh T không biết các đối tượng trên thuê phòng để phục vụ việc mua bán dâm. Ngoài ra khi nghi ngờ có việc mua bán dâm, anh T đã trình báo đến Công an tỉnh Bắc Giang, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 98B2-99719 Cơ quan điều tra đã thu giữ do của Hoàng Thị N sử dụng để Hà Thị V và Nguyễn Thị B1 đi bán dâm, do có mâu thuẫn về nguồn gốc nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam có văn bản yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam làm rõ để xử lý sau.

Vật chứng gồm: 02 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su đã bị xé rách một góc, nhãn hiệu Doctor chữ đỏ nền trắng; 01 vỏ bao cao su đã bị xé rách một góc nhãn hiệu Doctor màu trắng; Số tiền 700.000 đồng (trong đó có 01 tờ tiền polime mệnh giá 500.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 200.000 đồng); 04 hộp nhãn hiệu “TONIHU bao cao su gia đình”, bên ngoài vỏ màu đỏ, bên trong có bao cao su chưa qua sử dụng; 01 quyển hộ chiếu số: B8106422; 01 quyển sổ nhãn hiệu bìa ‘SỔ TỔNG HỢP”, bên trong có ghi chữ và số; 01 bao cao su nhãn hiệu “TONIHU” vỏ ngoài đã bị xé được chuyÓn xö lý cïng vô ¸n.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam, Hoàng Thị N đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Tại Bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 11/5/2019 của Viện kiểm sát huyện Lục Nam đã truy tố bị cáo Hoàng Thị N về tội “ Môi giới mại dâm” theo khoản 2 Điều 328 BLHS.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2019/HS-ST ngày 24/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị N phạm tội “ Môi giới mại dâm”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 và khoản 4 Điều 328; điểm s khoản1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS;

Xử phạt bị cáo: Hoàng Thị N 36 ( ba sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Nhưng được khấu trừ thời hạn đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2019 đến ngày 30/01/2109.

Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000( mười triệu) đồng sung công quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/8/2019 bị cáo Hoàng Thị N nộp đơn kháng cáo với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo; Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Hoàng Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do: Bị cáo là lao động chính đang phải nuôi mẹ già 72 tuổi và 2 con nhỏ, chồng đã ly hôn. Quá trình tại ngoại, bị cáo giúp cơ quan Điều tra công an huyện Việt Yên bắt giữ được 2 đối tượng có hành vi trộm cắp tài sản. Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế đề nghị miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị N xin được hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo N xin được giảm nhẹ hình phạt, sửa bản án sơ thẩm. Bị cáo Hoàng Thị N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Hoàng Thị N không tranh luận gì.

Bị cáo Hoàng Thị N nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt với mức thấp nhất và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị N đã được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Thị N thì thấy: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 04/01/2019, tại quán cà phê “P” ở Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh B, Hoàng Thị N là chủ quán “P” đã có hành vi điều Hà Thị V, sinh năm 1988 và Nguyễn Thị B1 (tức Lan), sinh năm 1974 đi bán dâm cho Trương Văn T, sinh năm 1989 và Nguyễn Văn L, sinh năm 1974, với giá 600.000 đồng. Đến hồi 22 giờ 10 phút cùng ngày, khi Hà Thị V và Trương Văn T, Nguyễn Thi B1 và Nguyễn Văn L đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại Nhà nghỉ D ở số 27, phố Tân An, xã Tân An, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang theo sự dẫn dắt của N thì bị Tổ công tác của Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Giang bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy hành vi của bị cáo Hoàng Thị N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Hoàng Thị N về tội “Môi giới mại dâm” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị N thấy: Tại phiên tòa, bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt, xin được hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung bằng tiền nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm không đặt ra giải quyết.

Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Án sơ thẩm xác định bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; là có căn cứ.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có ông nội được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất và huân chương kháng chiến hạng nhì, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo Hoàng Thị N là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây dư luận xấu trong nhân dân. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải nghiêm trị bằng pháp luật hình sự, lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để răn đe và phòng ngừa chung. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo N mức án 03 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội, không nặng đối với bị cáo.

Tại quá trình xét xử phúc thẩm, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có công văn số: 630/CQCSĐT ngày 25/10/2019 gửi Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang xác nhận bị cáo Hoàng Thị N đã có thành tích tố giác cung cấp thông tin giúp Công an huyện Việt Yên bắt được 02 đối tượng phạm tội Trộm cáp tài sản và đề nghị Toà án xem xét để bị cáo N được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật. Bị cáo N xuất trình 01 đơn đề nghị có xác nhận UBND xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng xác nhận bị cáo là lao động duy nhất phải nuôi mẹ già và o2 con nhỏ kinh tế gia đình khó khăn. Hội đồng xét xử thấy đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, chưa được cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo do vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo để giảm môt phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Đối với kháng cáo của bị cáo đề nghị miễn hình phạt bổ sung bằng tiền, Hội đồn xét xử thấy hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất vụ lợi, bị cáo không thuộc diện hộ nghèo hoặc cận nghèo, Toà sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000 đồng đối với bị cáo để sung công quỹ nhà nước là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị N được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1]Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị N phạm tội “ Môi giới mại dâm” Áp dụng điểm đ khoản 2 và khoản 4 Điều 328; điểm s, điểm t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS;

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị N 24 (Hai tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Nhưng được khấu trừ thời hạn đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2019 đến ngày 30/01/2109.

Phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Hoàng Thị N 10.000.000( mười triệu) đồng sung công quỹ nhà nước.

[2] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Thị N không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

375
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HS-PT ngày 07/11/2019 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:157/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về