Bản án 159/2018/HS-ST ngày 19/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 159/2018/HSST NGÀY 19/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh  Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công  khai  vụ án hình sự sơ  thẩm thụ lý số 211/2018/TLST-HS ngày 19/6/2018 theo Quyết định đưa vu án ra xét xử  số 185/2018/QĐXXST-HS ngày 03/7/2018 đối vơi bị cáo:

Nguyễn Thị Minh C. (Ly) sinh ngày 14/10/1995 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn Phước Tr., xã Phước Đ, thành phố Nha Trang , tỉnh Khánh Hòa ; nghê nghiêp : Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Không rõ, mẹ: Nguyễn Thị Thu C., sinh năm 1968, có 02 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại và bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo C. có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn Đ., sinh năm 1993. Nơi cư trú: Thôn Phước L., xã Phước Đ., thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Anh Đ. vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Vũ L., sinh năm 1992. Nơi cư trú: 84B tổ X Hà Ra, phường Vĩnh P., thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Anh L. vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh Nguyễn Bảo Q., sinh năm 1991. Nơi cư trú: 36 V., phường Vĩnh T., thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Anh Q. vắng mặt tại phiên tòa.

4. Anh Huỳnh Chí H., sinh năm 1984. Nơi cư trú: Tổ Y, Trường Sơn, phường Vĩnh T., thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Anh H. vắng mặt tại phiên tòa.

5. Anh Trịnh Công M., sinh năm 1996. Nơi cư trú: Tổ Z, Trường Sơn, phường Vĩnh T., thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Anh M. vắng mặt tại phiên tòa.

6. Anh Vũ Anh K., sinh năm 1991. Nơi cư trú: 102 H., phường Vĩnh N., thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Anh K. vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 22/5/2017, Tổ công tác thuộc Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Nha Trang phối hợp với Công an phường Vĩnh Nguyên, Nha Trang tiến hành kiểm tra nhà nghỉ An Vũ tại địa chỉ 102 Hoàng Diệu, Vĩnh Nguyên, Nha Trang. Tại đây, tổ công tác phát hiện Nguyễn Văn Đ. vừa từ trong nhà nghỉ đi ra, có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra thì phát hiện và thu giữ trên tay Đ. 01 bịch nylon hàn kín, bên trong có chứa 0,1386g chất tinh thể màu trắng (ký hiệu A). Đ. khai nhận đó là ma túy đá Đ. vừa mới mua của Nguyễn Thị Minh C. tại phòng 302 của nhà nghỉ với giá 300.000đ. Tiến hành kiểm tra phòng 302, phát hiện Nguyễn Thị Minh C. Quá trình làm việc, C. khai nhận vừa bán cho Đ. 01 bịch ma túy đá với giá 300.000đ.

Qua quá trình điều tra, Nguyễn Thị Minh C. và Nguyễn Văn Đ. khai nhận, tại khu vực tổ 7 Hà Ra, Vĩnh Phước, Nha Trang, C. đã nhiều lần bán ma túy đá cho Đ. với giá từ 200.000đ đến 300.000đ/bịch.

Toàn bộ số ma túy bị thu giữ trên là của C. mua từ một người phụ nữ tên N. tại khu vực lầu 7, Vĩnh Phước, Nha Trang (chưa xác định được lai lịch) để bán lại cho Đ. kiếm lời.

Tại bản kết luận giám định số 259/GĐTP/2017 ngày 26/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamin, có khối lượng là 0,1386g.

Vật chứng của vụ án:

- Số ma túy thu giữ, được niêm phong, ký hiệu A;

- Số tiền 300.000đ

- 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen, sử dụng số thuê bao 0905323120;

- 01 xe moto hiệu Attila, BKS 79N1-713.81;

- 01 dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Tại bản cáo trạng số 108/CT-VKS ngày 29/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thị Minh C. về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thị Minh C., xử phạt bị cáo C. từ 07 đến 08 năm tù giam. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen, sử dụng số thuê bao 0905323120; 01 xe moto hiệu Attila, BKS 79N1-713.81 (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018). Tịch thu tiêu hủy 01 dụng cụ sử dụng ma túy đá (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng gồm các anh Nguyễn Văn Đ., Nguyễn Vũ L., Nguyễn Bảo Q., Huỳnh Chí H., Trịnh Công M., Vũ Anh K. mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, xét thấy việc vắng mặt của các đương sự có tên trên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các anh Nguyễn Văn Đ., Nguyễn Vũ L., Nguyễn Bảo Q., Huỳnh Chí H., Trịnh Công M., Vũ Anh K. theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Minh C. cho rằng, bị cáo hoàn toàn không bán ma túy cho Đ. lần nào mà chỉ hùn tiền cùng với Đ. mua ma túy về để sử dụng chung; trong quá trình điều tra, bị cáo bị đánh đập, ép cung; bị cáo chưa hề gặp mặt Đ. và những người sử dụng ma túy chung là Nguyễn Bảo Q., Huỳnh Chí H., Trịnh Công M. nên bị cáo yêu cầu được đối chất với những người này.

Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, tại biên bản sự việc ngày 22/5/2017 (bút lục số 05-06), các biên bản ghi lời khai ngày 22/5/2017, ngày 21/6/2017 (bút lục số 22-25, 29-30),  các biên bản hỏi cung bị can ngày 07/7/2017, ngày 24/7/2017, ngày 04/10/2017 (bút lục số 32-36), C. đều khai nhận đã nhiều lần bán ma túy đá cho Đ.. Tại bản tự khai ngày 22/5/2017 (bút lục 52), các biên bản ghi lời khai ngày 22/5/2017, ngày 25/7/2017, ngày 13/10/2017, ngày 28/02/2018 (bút lục số 54-57, 106), biên bản đối chất ngày 11/10/2017 giữa Đ. và C. (bút lục số 37-38), Nguyễn Văn Đ. khẳng định, C. đã nhiều lần bán ma túy cho Đ.. Các bản tự khai ngày 22/5/2017 (bút lục số 68, 74), các biên bản ghi lời khai ngày 22/5/2017, ngày 23/7/2017 của Huỳnh Chí H., Trịnh Công M., Nguyễn Bảo Q. (bút lục số 63-66, 69-72) đều khai tại nhà nghỉ An Vũ có thấy Đ. đưa cho C. 300.000đ và tại Cơ quan Công an, có nghe C. khai nhận vừa bán ma túy cho Đ.. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo C. đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho Đ.. Cáo trạng số 108/CT-VKSNT ngày 29/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo Nguyễn Thị Minh C. về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo C. là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy, là loại độc dược nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Là người mẹ trong gia đình nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện dẫn đến bản thân nghiện ma túy, không làm ăn lương thiện làm gương cho con cái noi theo mà hám lời bán ma túy thu lợi; làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Do vậy, cần thiết phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phát huy hiệu quả phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo C. phạm tội khi mang thai, hiện đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi nên áp dụng quy định tại điểm l khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Việc bị cáo C. cho rằng, trong quá trình điều tra, bị cáo bị đánh đập, ép cung nhưng bị cáo lại không xuất trình được chứng cứ chứng minh bị cáo bị đánh đập hay ép cung; tại các bút lục số 32, 34, 111, 119… bị cáo đều xác định bị cáo không bị ép cung hay đánh đập gì nên không có căn cứ để xác định quá trình điều tra của Cơ quan điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[3]. Về vật chứng và xử lý vật chứng:

Tại phiên tòa, bị cáo C. khai, ngày 22/5/2017, anh Trịnh Công M. đã sử dụng xe máy hiệu Sirius của anh M. chở bị cáo đi mua mua túy, bị cáo không sử dụng xe máy hiệu Attila, BKS 79N1-713.81 của mình để đi mua ma túy. Tuy nhiên tại các bút lục số 22, 29, 31, 33 thể hiện, bị cáo đã sử dụng xe máy Attila, BKS 79N1-713.81 để đi mua ma túy về bán lại cho Đ.. Ngoài ra, bị cáo C. đã dùng điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen, số thuê bao 0905323120 để trao đổi với Đ. về việc mua bán ma túy, số tiền 300.000đ là do bị cáo bán ma túy cho Đ. có được. Do đó, cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen, sử dụng số thuê bao 0905323120; 01 xe moto hiệu Attila, BKS 79N1-713.81 (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018).

- Tịch thu tiêu hủy 01 dụng cụ sử dụng ma túy đá (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018).

[4]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Minh C. phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5]. Đối tượng tên N. bán ma túy cho C, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau.

Đối với Nguyễn Vũ L. không tham gia bán ma túy cho Đ. nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Nguyễn Văn Đ., Nguyễn Bảo Q., Huỳnh Chí H., Trịnh Công M. đã bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 194; điểm l khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bô luât hình sự năm 1999, tuyên bố bi cao Nguyễn Thị Minh C. phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Minh C. 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.

- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen, sử dụng số thuê bao 0905323120; 01 xe moto hiệu Attila, BKS 79N1-713.81 (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018).

Tịch thu tiêu hủy 01 dụng cụ sử dụng ma túy đá (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018).

- Về án phí: Áp dung Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/QH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thị Minh C. phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2018/HS-ST ngày 19/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:159/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về