Bản án 160/2018/HSST ngày 24/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 160/2018/HSST NGÀY 24/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 169/2018/HSST ngày 30 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Lò Văn P; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1993; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 8/12; con ông: Lò Văn G ( Đã chết ) và bà Lò Thị T – SN: 1972; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 11/6/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 11/6/2018, tại khu vực bản P, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác đồn Công an xã Co Mạ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Văn P ( SN: 1993, trú tại: Bản N, xã C - Thuận Châu - Sơn La ) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói ni lon màu hồng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng ( Theo đối tượng P khai nhận là Heroin);

Kết quả cân tịnh gói bột màu trắng thu giữ của đối tượng Phái, có khối lượng là 0,15 gam, đánh ký hiệu P1 làm mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 746/KLMT ngày 18/6/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu P1 gửi giám định là chất ma túy; Loại chất Heroin, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,15 gam. ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định ).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Lò Văn P đã khai nhận như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 11/6/2018, Lò Văn P đón xe khách từ ngã ba Bản P, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, để đi chơi tại xã Co Mạ. Khoảng 21 giờ cùng ngày trong khi P đang đứng ở trung tâm xã Co Mạ thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông tên Ph ( P không biết rõ tên họ và địa chỉ cụ thể của người này ), sau một lát trò truyện thì P hỏi và mua được của Ph một lượng Heroin được gói bằng mảnh ni lon màu hồng với giá 50.000đ. Sau khi mua được Heroin P cầm ở tay trái rồi vào một quán điện tử ven đường ngồi chơi, sau khoảng 05 phút thì tổ công tác đồn Công an xã Co Mạ vào kiểm tra, phát hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 133/CT - VKS ngày 29/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn P, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, đối với bị cáo.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 - khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số vật chứng gồm: 01 mảnh ni lon màu hồng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Tại phiên tòa bị cáo P có ý kiến: Thừa nhận ngày 11/6/2018 bị Công an đồn Co Mạ, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ 0,15 gam Heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã biết tội mong được Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 11/6/2018, bị cáo Lò Văn P ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,15 gam Heroin ) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn P đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi các bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; bị cáo có ông nội là Lò Văn T được tặng thưởng huy chương kháng chiến chống mỹ cứu nước hạng nhì. Nên được áp dụng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Xử lý vật chứng:

- Vật chứng là 0,15 gam Heroin đã sử dụng hết trong quá trình giám định, do vậy không đặt ra vấn đề xem xét giải quyết.

- Vật chứng là 01 mảnh ni lon màu hồng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 - khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với nguồn gốc 0,15 gam Heroin bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của một người đàn ông dân tộc Mông tên Ph, tại trung tâm xã Co Mạ, huyện Thuận Châu. Kết quả điều tra do bị cáo không cung cấp được tên họ và địa chỉ cụ thể của đối tượng đó, nên cơ quan Điều tra không có cơ sở, thông tin để điều tra làm rõ.

[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 - điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51

- Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn P 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 11/6/2018 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 –khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 mảnh ni lon màu hồng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh – đỏ.

3. Án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc bị cáo Lò Văn P nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ).

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2018/HSST ngày 24/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:160/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về