Bản án 161/2018/DS-ST ngày 23/10/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 161/2018/DS-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 394/2018/TLST-DS ngày 06 tháng 7 năm 2018 về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 234/2018/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V (V).

Trụ sở: Tầng 2, Tòa nhà R Tower, số 9, đường đ, phường m, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lô Bằng G – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hiền T – Trưởng phòng thu hồi nợ pháp lý – Trung tâm thu hồi nợ. (Văn bản ủy quyền số 50/UQ-VH.18 ngày 18/4/2018).

Ủy quyền lại cho: Chị Nguyễn Kim T, sinh năm: 1996. (có mặt)

Địa chỉ: Số 43, đường số 7, khu dân cư N, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền số 7956/UQTA-VH.18 ngày 22/5/2018)

- Bị đơn: Anh Phạm Minh T, sinh năm 1990. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 5 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Kim T đại diện cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V trình bày như sau:

Vào ngày 09/12/2016, Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V và anh Phạm Minh T có ký Hợp đồng tín dụng số 20161209-0010828 cho anh T vay số tiền vốn là 58.056.988 đồng, lãi suất 3.33%/tháng, mục đích vay là tiêu dùng cá nhân. Phương thức thanh toán trả dần. Theo đó, anh T có trách nhiệm thanh toán cho Công ty số tiền 100.525.154 đồng (gồm gốc và lãi) trong thời hạn 36 tháng, mỗi tháng trả 2.794.000 đồng, tháng cuối cùng trả 2.735.154 đồng. Bắt đầu thanh toán vào ngày 14/01/2017.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, anh T đã thanh toán cho Công ty được tổng số tiền 16.764.000đồng. Từ ngày 30 tháng 8 năm 2017, anh T không tiếp tục thanh toán dù Công ty đã nhiều lần nhắc nhở. Nay mặc dù chưa hết thời hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng nhưng việc anh T không thanh toán tiền gốc và lãi hàng tháng cho công ty từ ngày 30/8/2017 đến nay là vi phạm nghĩa vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nên công ty chấm dứt hợp đồng và yêu cầu anh T thanh toán cho công ty toàn bộ khoản nợ theo Điều 6 của Đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng.

Nay chị T đại diện Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V yêu cầu anh T trả số tiền là 75.522.725 đồng (trong đó nợ gốc là 52.455.435 đồng; nợ lãi tính đến ngày 01/10/2018 là 23.067.290 đồng).

Công ty không yêu cầu anh T trả lãi suất phát sinh từ ngày 02/10/2018 đến ngày xét xử vụ án và lãi suất chậm thi hành trong giai đoạn thi hành án.

Bị đơn anh Phạm Minh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời trình bày: Anh xác định có ký hợp đồng tín dụng để vay tiền của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V và đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho công ty. Nay, anh đồng ý trả số tiền như yêu cầu của Công ty nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải giữa các đương sự. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục. Qua hòa giải các đương sự đã không thỏa thuận được với nhau, vụ án được đưa ra xét xử là đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Quan hệ pháp luật tranh chấp: Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V khởi kiện đối với anh Phạm Minh T, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. Hội đồng xét thấy quan hệ pháp luật cần giải quyết là tranh chấp “Hợp đồng tín dụng”, Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa theo quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “ Thời hiệu khởi kiện…tranh chấp hợp đồng là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm”. Từ ngày 30/8/2017, anh Phạm Minh T ngưng thanh toán gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận. Ngày 22/5/2018, Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V khởi kiện yêu cầu thanh toán số tiền gốc và lãi nên thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng vẫn còn.

[3]. Đối với bị đơn anh Phạm Minh T có đơn đề nghị vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[4]. Qua yêu cầu khởi kiện của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V, Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Căn cứ vào hợp đồng tín dụng số 20161209- 0010828 ngày 09 tháng 12 năm 2016, xác định anh T có vay của Công ty với số tiền là 58.056.988đồng, lãi suất 3.33%/tháng, mục đích là để tiêu dùng cá nhân, hình thức thanh toán là trả chậm trong vòng 36 tháng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty đã giải ngân, anh T đã nhận đủ tiền và thực hiện nghĩa vụ thanh toán được tổng số tiền là 16.764.000 đồng. Từ ngày 30/8/2017 đến nay, anh T không thanh toán bất cứ tiền gốc và tiền lãi nào khác mặc dù Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V đã nhiều lần yêu cầu. Như vậy, anh T đã vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết với Công ty.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T thừa nhận việc ký kết hợp đồng tín dụng với Công ty, xác nhận số tiền còn nợ và đồng ý trả cho công ty nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Thấy rằng, mặc dù chưa hết thời hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng nhưng việc anh T không thanh toán tiền gốc và lãi hàng tháng cho công ty từ ngày 30/8/2017 đến nay là vi phạm nghĩa vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nên theo Điều 6 của Đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng, công ty có quyền chấm dứt hợp đồng và yêu cầu anh T thanh toán cho công ty toàn bộ khoản nợ. Do đó, xét yêu cầu của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V yêu cầu anh T trả số tiền 75.522.725 đồng (trong đó nợ gốc là 52.455.435đồng; nợ lãi tính đến ngày 01/10/2018 là 23.067.290đồng) là có căn cứ.

[5]. Đối với lãi suất từ ngày 02/10/2018 đến ngày xét xử, lãi suất phát sinh do chậm thi hành án, tại phiên tòa, chị T đại diện cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Phạm Minh T phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, 35, 144, 147, 186, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 91, Điều 95, điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V do chị Nguyễn Kim T đại diện theo ủy quyền về việc tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” đối với anh Phạm Minh T.

Buộc anh Phạm Minh T trả cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V số tiền 75.522.725 đồng (trong đó nợ gốc là 52.455.435đồng; nợ lãi tính đến ngày 01/10/2018 là 23.067.290đồng) sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Về án phí: Anh Phạm Minh T phải chịu 3.776.000đồng (Ba triệu bảy trăm bảy mươi sáu ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

Hoàn lại cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V số tiền 2.094.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0002777 ngày 05 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa.

Công ty Tài chính TNHH Một thành viên V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Minh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2018/DS-ST ngày 23/10/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:161/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về