Bản án 16/2018/HSST ngày 20/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 16/2018/HSST NGÀY 20/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân H (tên khác Tí Vịt), sinh năm 1986 tại D, Khánh Hòa; Nơi cư trú: Thôn Trường L, xã Diên L, huyện D, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Xuân Đ (chết) và bà Lâm Thị H (sinh năm 1956); Tiền sự: không;

Tiền án:

- Ngày 20/11/2007, Tòa án nhân dân huyện D, Khánh Hòa xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 25/02/2008, Tòa án nhân dân huyện C, Khánh Hòa xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp với bản án ngày 20/11/2007 của Tòa án nhân dân huyện D, Khánh Hòa là 03 năm tù; chấp hành xong hình phạt ngày 25/9/2010;

- Ngày 13/01/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt ngày 05/8/2014;

- Ngày 09/4/2015, Tòa án nhân dân huyện D, Khánh Hòa xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt ngày 30/4/2016;

Nhân thân: Ngày 04/6/2004, Tòa án nhân dân huyện D, Khánh Hòa xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị bắt tạm giam từ ngày 27/01/2018; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Lê Thị N, sinh năm 1956; Địa chỉ: Thôn Phước T, xã Diên T, huyện D, Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1997; Địa chỉ: Thôn Phước T, xã Diên T, huyện D, Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 21/8/2017, do cần tiền tiêu xài nên Nguyễn Xuân H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, H đi nhờ xe của người dân đến khu vực nghĩa trang Suối Đ (thuộc thôn Phước T, xã Diên T, D). Tại đây, H phát hiện nhà bà Lê Thị N không có người trông coi, H lén lút phá cửa phía sau để vào nhà bà N trộm cắp các tài sản gồm: 01 cái cân hiệu Nhơn Hòa, 01 loa nghe nhạc hiệu Crown. 01 máy bơm nước 01HP, 01 thau kim loại, 04 xoong nồi kim loại, 04 ca nấu nước bằng kim loại. H lấy 01 bịch nilon trong nhà bà N đựng tất cả tài sản đã lấy được cất giấu tại bụi chuối ở vườn nhà bà N. Lúc này, anh Nguyễn Hoàng P đang câu ếch ở gần đó nhìn thấy và nghi ngờ H trộm cắp tài sản nên đã điện thoại báo Công an xã Diên T. Do phát hiện có người nhìn thấy mình nên H không mang theo tài sản trộm cắp và đi ra ngoài, đi được một đoạn thì H bị Công an xã Diên T phát hiện. Tại cơ quan Công an, H khai nhận hành vi trộm cắp của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 79/KLĐG ngày 11/9/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện D xác định tổng giá trị tài sản trộm cắp tại thời điểm xảy ra vụ việc có giá trị 800.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 08 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình năm 1999; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Xuân H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Xuân H khai nhận bị cáo đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, do cần tiền tiêu xài nên đã có hành vi lén lút vào nhà bà Lê Thị N trộm cắp 01 cái cân hiệu Nhơn Hòa, 01 loa nghe nhạc hiệu Crown. 01 máy bơm nước 01HP, 01 thau kim loại, 04 xoong nồi kim loại, 04 ca nấu nước bằng kim loại có tổng giá trị 800.000đ. Bị cáo nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Người bị hại và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra, căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999. Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương; gây hoang mang trong quần chúng nhân dân trong việc bảo vệ tài sản; bị cáo đã bị xét xử, kết án nhiều lần về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo rất xem thường pháp luật nên cần xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo và ngăn ngừa chung. Tuy nhiên, xét tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn; được thu hồi ngay trả cho người bị hại thuộc trường hợp gây thiệt hại không lớn; bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải nên giảm cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Lê Thị N vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên tại hồ sơ thể hiện bà N đã nhận lại toàn bộ tài sản do bị cáo chiếm đoạt, không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H (Tí Vịt) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999;

Xử phạt: Nguyễn Xuân H (Tí Vịt) 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/01/2018.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội; bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HSST ngày 20/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về