Bản án 16/2018/HS-ST ngày 30/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 16/2018/HS-ST NGÀY 30/03/2018 VỀ TRỘM CĂP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2018 tại Trụ sở toà án nhân dân huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số : 15/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo :

NGUYỄN NGỌC T, Sinh năm; Nơi cư trú : Thôn T, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội; quốc tịch : Việt Nam; dân tộc : Kinh; tôn giáo : Không; trình độ văn hóa : 07/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1966; con bà : Lê Thị Q, sinh năm 1967; vợ, con : Chưa có; Tiền án : Ngày 19/4/2011 bị Tòa án nhân dân quận Hà Đông xử phạt 08 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2011. Ngày 07/01/2013, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2013. Ngày 25/7/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/8/2016; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/4/2008, bị Công an huyện Từ Liêm, TP Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức phạt tiền; bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày04/01/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại : Anh Nghiêm Đình H, Sinh năm 1980; trú tại : Thôn, xã Q, Huyện U, TP Hà Nội, vắng mặt.

-Những người làm chứng :

+ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1989, vắng mặt

+ Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1984, vắng mặt

Đều trú tại : Thôn, xã Q, huyện U, TP Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 04/01/2018, Nguyễn Ngọc T đi xem có ai sơ hở thì trộm cắp, khi đi có đem theo 01 vam phá khóa xe máy, khi T đi đến địa phận thôn Cầu Bầu, xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội, T quan sát thấy nhà anh Nghiêm Đình H cửa cổng mở, bên trong sân nhà có dựng 03 chiếc xe máy. Trong nhà không thấy có ai nên vào trong sân, dùng chiếc vam phá khóa chọc vào ổ khóa điện của chiếc xe máy AirBlade màu vàng đen (dựng ở giữa) rồi vặn vam phá khóa nhưng không mở được khóa điện của xe, T dắt chiếc xe ra ngoài cổng rồi đi ra đường được khoảng 07 mét về hướng Quán Tròn thì bị nhân dân phát hiện, bắt giữ và đưa về trụ sở công an xã Quảng Phú Cầu lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 xe máy Honda Air Blade màu đen vàng BKS: 29Y3 - 172.35;

- 01 vam phá khóa bằng kim loại tròn, phi 6, hình chữ L, đầu vam dài 09 cm mũi dẹt, đuôi vam dài 13cm có dán băng dính màu đen.

Ngày 05/01/2018, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội đã ra Yêu cầu định giá tài sản số 09 đối với chiếc xe Air Blade trên. Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 03-BBKL/HĐĐGTSTTT ngày 05/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Ứng Hòa kết luận: “01 chiếc xe máy Honda AirBlade màu đen vàng, BKS: 29Y3-17235, số khung 286319, số máy 4153477 xe đã qua sử dụng có giá tiền là: 29.500.000 đồng”.

Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số: 14/CT - VKS ngày 08/3/2018 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hoà truy đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T  về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản quy định tại điểm g khoản 2 (Tái phạm nguy hiểm) Điều 173 của Bộ luật hình sự năm năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà : Đại diện VKS giữ nguyên quan điểm truy tố cả về tội danh nội dung cũng như điều luật, khoản áp dụng như trên, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội : Trộm cắp tài sản, xử phạt bị cáo T từ 3 năm đến 4 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự: anh Nghiêm Đình H đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chiếc khóa xe bị hỏng nên không giải quyết trong vụ án; về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu hủy 01 vam phá khóa; về án phí áp dụng Điều 135,136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, những người làm chứng, người tham gia tố tụng khác .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Tại cơ quan điều tra cũng như phiên tòa bị cáo nhận tội như nội dung bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa đã nêu; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, vật chứng thu giữ được, phù hợp với những tài liệu khác được cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Nguyễn Ngọc T do không có tiền tiêu sài. Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, ngày 04/01/2018 Nguyễn Ngọc T đã lén lút dùng vam phá khóa nhưng không được nên đã dắt trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen vàng, BKS: 29Y3 -17235 Nghiêm Đình H ở thôn C, xã Q, huyện U thì bị phát hiện bắt quả tang, xe có trị giá 29.500.000 đồng.

[2] Bằng hành vi nén lút chiếm đoạt tài sản có trị giá nêu trên của Nguyễn Ngọc T . Bị cáo đã 03 lần liên tiếp thực hiện cùng hành vi trộm cắp và đều bị kết án nhưng cả 3 lần chưa được xóa án tích thì lại tiếp tục phạm tội , lần phạm tội này cũng chưa được xóa án của bản án trước, vì vậy bị cáo bị xác định là tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 về tội: Trộm cắp tài sản của Bộ luật hình sự năm năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, do đó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hoà truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản luật áp dụng như nêu trong Bản Cáo trạng là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi giữa ban ngày, hơn nữa bị cáo đã nhiều lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản, khi chấp hành xong hình phạt được thời gian ngắn lại tiếp tục phạm cùng loại tội thể hiện bị cáo cáo thường pháp luật. Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để giáo dục, cảnh tỉnh bị cáo, đảm bảo việc răn đe phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, cũng xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; trong quá trình điều tra bị cáo đã hợp tác để giải quyết vụ án;  phạm tội nhưng  gây hậu quả không lớn, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại, đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.

[4] Bị cáo không có việc làm ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên tòa không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen vàng, BKS: 29Y3 -17235, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Ứng Hoà đã trả lại cho anh Nghiêm Đình H, anh N nhận lại và không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường về chiếc khóa điện bị hỏng nên Tòa được ghi nhận và không xử lý trong vụ án.

[6] Xử lý vật chứng: 01 vam phá khóa bằng kim loại tròn, phi 6, hình chữ L, đầu vam dài 09 cm mũi dẹt, đuôi vam dài 13cm có dán băng dính màu đen là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy phù hợp với là phù hợp với điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm - Theo Điều 135;136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội : Trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Nguyễn Ngọc T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (04/01/2018).

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015: Xác nhận anh Nghiêm Đình H đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen vàng, biểm kiểm soát : 29Y3 -17235 và không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường trị giá chiếc khóa điện của xe bị hỏng.

3. Về xử lý vật chứng : Căn cứ khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tịch thu tiêu huỷ 01 vam phá khóa bằng kim loại hình tròn, phi 6 hình chữ L, đầu vam dài 09 cm, mũi dẹt, đuôi vam dài 13cm có dán băng dính màu đen (Tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan công an chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ứng Hoà ngày 14/3/2018).

4. Về án phí : Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội : Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo; kể từ ngày anh Nghiêm Đình H nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HS-ST ngày 30/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về