Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 58/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXX-ST ngày 11 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18 ngày 04/4/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Phương L sinh năm 1974 (Có mặt)

HKTT: Số ….BT, phường HR, TP TH, tỉnh TH.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh T , sinh năm 1973 (Vắng mặt)

HKTT: HKTT: Số ….BT, phường HR, TP TH, tỉnh TH.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, chị Phạm Phương L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Mạnh T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 27/9/1996. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không quan tâm đến gia đình, thường xuyên chơi bời bài bạc, không có trách nhiệm với vợ con. Do đó vợ chồng thường xuyên cải vã, anh T còn đánh chửi chị. Năm 2003 chị đã làm đơn ly hôn, được Tòa án và gia đình hai bên hòa giải động viên nên chị rút đơn để vợ chồng đoàn tụ. Song anh T không sửa đổi nên vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng, năm 2008 chị đưa con về ở cùng với mẹ đẻ, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm đến nhau, chấm dứt quan hệ về tình cảm và kinh tế.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị kiên quyết đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị ly hôn anh Nguyễn Mạnh T .

Tại bản tự khai ngày 15/01/2019 anh Nguyễn Mạnh T khai thống nhất với lời khai của chị L về thời gian và điều kiện kết hôn. Về mâu thuẫn vợ chồng anh xác định vợ chồng có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và đã sống ly thân từ năm 2008 đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn vì ly thân đã lâu, nhưng để con cái có gia đình ổn định nên anh đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, song chị L vẫn kiên quyêt ly hôn do vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị L, anh T khai thống nhất: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Mạnh H , sinh ngày 02/5/1996 và Nguyễn Nhật A, sinh ngày 25/3/2007. Nay ly hôn chị L và anh T đều xin được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Nhật A và không yêu cầu bên kia phải cấp dưỡng nuôi con chung; cháu Nguyễn Mạnh H đã thành niên, phát triển bình thường, ở với bố hay mẹ là tùy cháu anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L, anh T thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, Nguyễn Nhật A xin được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

Ngày 27/02/2019, Tòa án xác minh tại địa phương phường Hàm Rồng, TP. Thanh Hóa. Kết quả xác định: Chị L và anh T có mâu thuẫn, nhiều lần cãi vã xô xát địa phương phải can thiệp hòa giải. Nguyên nhân mâu thuẫn địa phương không được biết vì anh chị không báo cáo. Anh chị sống ly thân khoảng 6 đến 7 năm nay. Từ khi anh chị sống ly thân anh T vẫn ở địa phương nhưng không thấy làm công việc gì. Hiện tại anh T không có nghề nghệp ổn định. Chị L là công nhân Công ty môi trường. Từ khi anh chị ly thân hai con ở với chị L

Tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 07/3/2019, sau khi tiếp cận công khai chứng cứ, anh T không tham gia hòa giải và bỏ về, chị L giữ nguyên quan điểm khởi kiện và đề nghị Tòa án không hòa giải nữa.

Tại phiên tòa ngày 28/3/2019, chị L có mặt, anh T vắng mặt lần thứ nhất, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa đồng thời ấn định thời gian mở phiên tòa lần thứ 2 vào ngày 19/4/2019. Quyết định hoãn phiên tòa đã tống đạt hợp lệ cho anh Nguyễn Mạnh T .

Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Mạnh T vắng mặt; chị Phạm Phương L giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh T, về con chung chị xin nuôi cháu Nguyễn Nhật A và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện VKS: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và HĐXX, việc chấp hành pháp luật của chị L , kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân thủ đúng quy định, anh T chưa chấp hành đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn, anh Nguyễn Mạnh T đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt lần thứ 2, HĐXX căn cứ Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt anh Nguyễn Mạnh T

[2] Về hôn nhân: Chị Phạm Phương L và anh Nguyễn Mạnh T tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 27/9/1996 như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không quan tâm chăm lo đời sống gia đình, không có trách nhiệm với vợ con, vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2008 đến nay. Nay chị L xác định vợ chồng mâu thuẫn kéo dài, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị kiên quyết xin được ly hôn anh T ; Anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, nhưng để các con có gia đình đầy đủ bố mẹ nên anh không đồng ý ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L , anh T g đã thực sự trầm trọng, Vợ chồng sống ly thân thời gian dài, yêu cầu ly hôn của chị L là có cơ sở. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật HNGĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L .

[3] Về con chung: Chị Phạm Phương L và anh Nguyễn Mạnh T có 02 con chung là Nguyễn Mạnh H , sinh ngày 02/5/1996 và Nguyễn Nhật A , sinh ngày 25/3/2007. Chị L và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Nhật A và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con chung. Xét nguyện vọng của chị L , anh T là hoàn toàn chính đáng và không trái quy định của luật. Song từ khi anh chị sống ly thân đến nay cháu Nhật A do chị Lan trực tiếp nuôi

dưỡng, bản thân cháu Nhật A có bản khai xin được ở với mẹ. Để tránh xáo trộn không tốt cho cuộc sống của cháu, giao Nhật A cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Cháu Mạnh H đã thành niên, HĐXX không xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Phạm Phương L là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 6; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Phương L ly hôn anh Nguyễn Mạnh T

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Nhật A , sinh ngày 25/3/2007 là con chung của chị L , anh T cho chị Phạm Phương L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Mạnh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L . Cháu Nguyễn Mạnh H đã thành niên, HĐXX không xét.

Anh Nguyễn Mạnh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phạm Phương L và anh Nguyễn Mạnh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Phạm Phương L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0006680 ngày 28/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Chị L đã nộp đủ án phí.

- Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Phương L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Mạnh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về