Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị M, sinh năm 1986

Địa chỉ: thôn Ph 2, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Trịnh Đức B, sinh năm 1985

Địa chỉ: thôn Đ, xã Đ, huyện H, Thanh Hóa

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn chị Lê Thị M, vắng mặt bị đơn anh Trịnh Đức B không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/01/2019, bản tự khai ngày 10/01/2019 và lời trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn chị Lê Thị M thể hiện:

Tôi và anh Trịnh Đức B tự nguyện kết hôn được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 09/9/2011. Vợ chồng tôi sống hòa thuận được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh B không chăm lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con, vì thế tình cảm vợ chồng không còn nên vợ chồng tôi sống ly thân đã 03 năm nay không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể kéo dài cuộc sống vợ chồng thêm được nữa nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Trịnh Đức B.

Về con: Vợ chồng tôi có một con chung là cháu Trịnh Thị Bảo A, sinh ngày 29/5/2013, hiện đang ở với tôi. Tôi đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Trịnh Thị Bảo A và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Tại lời trình bày ngày 11/01/2019 của bố anh Trịnh Đức B là ông Trịnh Đức T thể hiện: Anh Trịnh Đức B và chị Lê Thị M tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2011. Từ năm 2016 đến nay, hai vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người một nơi. Anh B biết việc chị M xin ly hôn do tôi thông báo, anh B cũng thống nhất ly hôn nhưng do điều kiện công việc không thể nghỉ để đến Tòa án được.

Về con: Anh B và chị M có một con chung là cháu Trịnh Thị Bảo A, sinh ngày 29/5/2013, đang ở với mẹ, theo ý kiến anh B vì con đang còn nhỏ, lại là con gái nên anh không tranh đòi nuôi con, hiện tại anh cũng chưa có điều kiện cấp dưỡng cho cháu.

Về tài sản: Anh B và chị M không có tài sản, anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày nhận xét về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Chị Lê Thị M và anh Trịnh Đức B tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo luật định. Tình trạng hôn nhân của chị Lê Thị M và anh Trịnh Đức B đã thực sự trầm trọng, chị M đề nghị ly hôn, dù anh B đã được thông báo toàn bộ nội dung văn bản tố tụng do Tòa án giao nhưng không đến tại Tòa án và anh báo lại thông qua bố đẻ anh là anh đồng ý ly hôn, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận đề nghị xin ly hôn của chị M. Về con: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Trịnh Thị Bảo A sinh ngày 29/5/2013, lâu nay đang ở với chị M, cháu đang còn nhỏ nên đề nghị chấp nhận nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi con của chị. Về cấp dưỡng: chị M không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản và công nợ: chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét. Về án phí: đề nghị buộc chị Lê Thị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Trịnh Đức B không có mặt tại Tòa án để làm việc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho bố đẻ anh B là ông Trịnh Đức T và ông cam đoan giao hoặc thông báo nội dung văn bản cho anh B. Tòa án đã tiến hành xác minh và ông Trịnh Đức T cho biết ông đã thông báo nội dung toàn bộ các văn bản Tòa án giao cho anh Bằng biết nhưng do điều kiện công việc nên anh không thể đến Tòa án.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị M không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị M và anh Trịnh Đức B tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 09/9/2011 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau hòa thuận đến khoảng năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do kinh tế khó khăn, anh Bằng không có trách nhiệm với gia đình. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay không quan tâm đến nhau, anh Trịnh Đức B biết việc chị L đề nghị ly hôn tại Tòa án và bố anh B cho biết anh cũng thống nhất ly hôn nhưng anh không thể đến Tòa án, thể hiện tình cảm vợ chồng thực sự không còn. Như vậy tình trạng hôn nhân của anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị M là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2] Về con: Vợ chồng anh Trịnh Đức B và chị Lê Thị M có một con chung là cháu Trịnh Thị Bảo A, sinh ngày 29/5/2013. Chị M đề nghị được trực tiếp nuôi con Hội đồng xét xử nhận thấy cháu Trịnh Thị Bảo A là con gái lại đang còn quá nhỏ và lâu nay vẫn đang sống với chị M ổn định nên cần giao cháu Trịnh Thị Bảo A cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tố tụng: Ngày 11/01/2019, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương xác nhận: chị M và anh B đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ từ năm 2011. Tuy nhiên từ khoảng 03 năm nay, chị M và anh B đã sống ly thân mỗi người một nơi, chị M đi làm ăn xa và không còn sinh sống tại địa phương. Nay chị M xin ly hôn anh B, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị Lê Thị M có đơn đề nghị không hòa giải nên căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự không tiến hành hòa giải đối với anh chị. Đối với anh Trịnh Đức B dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, đã giao toàn bộ văn bản tố tụng cho bố anh là ông Trịnh Đức T và ông xác nhận đã thông báo nội dung cho anh nhưng anh đều không có mặt tại Tòa án, thể hiện anh có thái độ bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình. Tại phiên tòa ngày 28/01/2019, anh Trịnh Đức B vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh Trịnh Đức B vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh B là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn chị Lê Thị M phải chịu toàn bộ án phí dân sự trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị M được ly hôn với anh Trịnh Đức B.

Về con: Công nhận cháu cháu Trịnh Thị Bảo An, sinh ngày 29/5/2013 là con chung của chị Lê Thị M và anh Trịnh Đức B. Giao cháu Trịnh Thị Bảo A cho chị Lê Thị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Trịnh Đức B có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Nguyên đơn chị Lê Thị M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0004493 ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị M đã nộp đủ.

Nguyên đơn chị Lê Thị M được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn anh Trịnh Đức Bg có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về