Bản án 16/2019/HSST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 16/2019/HSST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở TAND huyện XM, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 16/2019/HSST ngày 22 tháng 02 năm 2019, đối với các bị cáo:

1.Cao Nguyễn Ngọc T ( BE ), sinh năm: 1996, tại Bà Rịa – Vũng Tàu – ( Có mặt ).

HKTT: 41/2, khu phố PH, TT PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Nghề nghiệp: công nhân học vấn: 8/12. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại.

Con ông: CV, sinh năm: 1968 và bà: Nguyễn Thị Kim H, sinh năm: 1969.

2.Trần Trọng H ( T ), sinh năm: 1998, tại Bà Rịa – Vũng Tàu - ( Có mặt ).

: tổ 3, ấp 6, xã HB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Nghề nghiệp: phụ hồ học vấn: 7/12. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại.

Con ông: Trần Văn Đ, sinh năm: 1976 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1975.

3.Dương Hữu L ( U ), sinh năm: 1996, tại Bà Rịa – Vũng Tàu – ( Có mặt ).

HKTT: ấp 6, xã HB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Nghề nghiệp: công nhân học vấn: 12/12. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại.

Con ông: Dương C, sinh năm: 1962 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1965.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Thị T, sinh năm: 1994 – ( Có mặt ).

HKTT: ấp 1, xã TH, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

Chỗ ở hiện nay: đường Tô Ngọc Van, tổ 12, phường Thanh Xuân, quận 12, TP Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Thị Kim L, sinh năm: 1971 – ( Có mặt ).

HKTT: khu phố XR, TT PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h00 ngày 02/10/2018, Cao Nguyễn Ngọc T, Dương Hữu L, Trần Trọng H tổ chức uống rượu tại nhà H. Trong lúc nhậu L rủ T và H mỗi người góp 70.000Đ ( Bảy mươi ngàn ) mua ma tuý đá về cùng nhau sử dụng. T và H đồng ý, tuy nhiên cả ba không có tiền nên mua thiếu, sau này có tiền sẽ trả sau. L điện thoại cho T hỏi mua 200.000Đ (Hai trăm ngàn ) ma tuý, T đồng ý bán ma tuý. Sau đó, T dùng xe mô tô biển kiểm soát: 72G1-432.25 chở L đến khu vực trường mầm non, ấp 6, xã HB để mua ma tuý. Tại đây T bán 02 gói ma tuý đá cho L và T, sau khi mua được ma tuý T bỏ 02 gói ma tuý vào gói thuốc lá nhãn hiệu Bastos rồi giấu trong túi áo khoác và chở L về nhà H tiếp tục nhậu. Đến khoảng 18h00 cùng ngày H rủ L, T đến khu vực chòi tole ở lô cáo su thuộc ấp 6, xã HB để sử dụng ma tuý. Trong lúc chờ L đi mua bật lửa để sử dụng ma tuý thì T và H bị lực lượng Công an huyện XM kiểm tra hành chính, phát hiện trong túi áo khoác của T có 02 gói nylon chứa chất kết tinh không màu nghi là ma tuý đá nên lập biên bản phạm tội quả tang vào lúc 18h45 cùng ngày.

Tại Cơ quan điều tra, T, L, H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên.

Tang vật tạm giữ: 02 gói nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu được niêm phong; 01 bao thuốc lá hiệu Bastos màu đỏ; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu xanh bạc, biển kiểm soát: 72G1-432.25.

Tại bản kết luận giám định số: 277/GĐMT-PC09 ( Đ4 ) ngày 11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: Chất kết tinh không màu trong suốt chưa trong 02 gói nylon hàn kín, niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an xã HB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa, cùng chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Văn L, Trương Đình T, Cao Nguyễn Ngọc T, Trần Trọng H, Nguyễn Văn Q gửi đến giám định có khối lượng: 0,2173 gam là chất ma tuý loại Methamphetamine.

Xử lý vật chứng: cơ quan điều tra trả cho bà Nguyễn Thị Kim L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu xanh bạc, biển kiểm soát: 72G1-432.25.

Giao cơ quan Thi hành án dân sự huyện XM 01 phong bì màu trắng, được niêm phong vụ số: 277/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hoàn trả, bên trong có chứa mẫu vật còn lại sau giám định; 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Bastos màu đỏ.

Đối với Trần Thị T, bị can T, L khai là người bán ma tuý cho T, L, nhưng quá trình điều tra không có căn cứ để kết luận T là người bán ma tuý cho T và L vào ngày 02/10/2018.

Cáo trạng số: 15/CT-VKS-XM ngày 20/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM đã truy tố Cao Nguyễn Ngọc T, Trần Trọng H, Dương Hữu L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như đã khai báo tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã nêu, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã nêu, đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Cao Nguyễn Ngọc T, Trần Trọng H, Dương Hữu L phạm tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo L từ 14 tháng tù đến 16 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo T từ 12 tháng tù đến 14 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H từ 12 tháng tù đến 14 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định; 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Bastos màu đỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà không có ai có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà các bị cáo Cao Nguyễn Ngọc T, Trần Trọng H, Dương Hữu L đã khai nhận: vào chiều ngày 02/10/2018, L đã rủ T, H góp tiền để mua ma tuý về sử dụng chung. Sau khi T và H đồng ý, L đã trực tiếp liên lạc với đối tượng tên T để đặt vấn đề mua ma tuý, sau khi T đồng ý bán L, H đã gặp T mua của T 02 gói Methamphetamine với giá 200.000Đ ( Hai trăm ngàn ). Sau mua được ma tuý, T, H, L đang chuẩn bị sử dụng ma tuý thì bị phát hiện bắt giữ.

Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, phù hợp với bản kết luận giám định số: 277/GĐMT-PC09 ( Đ4 ) ngày 11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: ngày 02/10/2018 T, H và L đang cất dấu 0,2173 gam ma tuý loại Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về quản lý chất gây nghiện. Xâm phạm đến trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo biết rõ tác hại của ma tuý là chất gây nghiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người. Là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn, thậm chí là tội phạm nên nhà nước cấm mua bán, sử dụng, tàng trữ, lưu hành, nhưng bị cáo T, H, L vẫn cất dấu 0,2173 gam Methamphetamine để sử dụng trái phép, nên các bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Điều 249 Bộ luật hình sự. Mặc dù có 03 người cùng tham gia nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, chuẩn bị kế hoạch, không có sự cấu kết chặt chẽ với nhau nên chỉ đồng phạm giản đơn chứ không phải phạm tội có tổ chức. Trọng lượng ma tuý các bị cáo tàng trữ là: 0,2173 gam ma tuý loại Methamphetamine. Do đó, các bị cáo đã vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xét nhân thân các bị cáo thì thấy: Các bị cáo là người có sức khoẻ, có đầy đủ nhận thức về xã hội, ý thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng với bản tính coi thường pháp luật, để thoả mãn nhu cầu thấp hèn của bản thân nên các bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của các bị cáo không những đã xâm hại đến việc độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước. Xâm phạm trật tự trị an tại địa phương mà còn tiếp tay cho tệ nạn ma tuý mà cả xã hội đang đấu tranh phòng, chống. Vì vậy, cần xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét vai trò của các bị cáo thì thấy: L là người chủ động khởi xướng việc chung tiền mua tuý và là người trực tiếp đi mua ma tuý. Do đó, vai trò của L cao hơn T và H. Còn T, H khi được L rủ chung tiền mua ma tuý để sử dụng không những không can ngăn mà còn hưởng ứng một cách tích cực, T là người cùng với L đi mua ma tuý, nên vai trò của T thấp hơn vai trò của L nhưng cao hơn vai trò của H. Do đó, các bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với vai trò của bản thân khi thực hiện hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cũng xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[3] Các bị cáo tàng trữ ma tuý nhằm mục đích sử dụng, điều kiện kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[4] Số ma tuý còn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng, 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Bastos màu đỏ không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với Trần Thị T quá trình điều tra không có căn cứ để kết luận T là người bán ma tuý cho T và L vào ngày 02/10/2018, nên không có cơ sở để xem xét, xử lý đối với Trần Thị T.

Bà Nguyễn Thị Kim L chủ sở hữu xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu xanh bạc, biển kiểm soát: 72G1-432.25. Khi bị cáo T sử dụng xe mô tô vào việc phạm tội bà L không biết, nên cơ quan điều tra trả lại xe cho bà L là đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận lại xe bà L không có ý kiến, yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo: Dương Hữu L ( Út), Cao Nguyễn Ngọc T ( BE ), Trần Trọng H ( T ) phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

[1] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Dương Hữu L ( U ): 14 ( Mười bốn ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Cao Nguyễn Ngọc T ( BE ): 13 ( Mười ba ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Trần Trọng H ( T ): 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2] Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[3] Về vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định được chứa trong 01 phong bì màu trắng, có số ký hiệu niêm phong vụ số: 277/GĐMT-PC09 ( Đ4 ) ngày 11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu Bastos màu đỏ.

( Vật chứng đang được quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số: 25/BB ngày 21/02/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện XM ).

[4] Về án phí: Các bị cáo L, T, H mỗi người phải nộp 200.000Đ ( Hai trăm ngàn ) án phí HSST.

[5] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HSST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về