Bản án 162/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 162/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1033/2018/TLST - HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1987; Thường trú: Thôn Y, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Số 40/22, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1989; Thường trú: Thôn Y, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Số 40/22, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Chị Lê Thị Th có yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh Nguyễn Trọng H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 24/9/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trọng H tìm hiểu nhau thời gian 03 tháng thì tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa theo Giấy chứng nhận kết hôn số 24, quyển số 01/2012 ngày 15/3/2012. Sau khi kết hôn, anh chị sống tại xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, năm 2015 chuyển về quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Một thời gian sau, vợ chồng chuyển về địa chỉ số 40/22, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương sống cho đến nay. Thời gian đầu, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc nhưng từ tháng 4 năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, tính tình ngày càng không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi nhau về nhiều vấn đề trong cuộc sống, có lúc còn đánh nhau.

Gia đình hai bên đều biết mâu thuẫn của anh chị, đã nhiều lần hàn gắn nhưng không có kết quả. Hiện nay anh chị vẫn sống cùng nhà nhưng mỗi người có 01 cuộc sống riêng, không còn quan tâm chăm sóc nhau, chị Lê Thị Th xác định tình cảm vợ chồng không còn nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Trọng H.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Thị H, sinh ngày 05/6/2014, hiện nay con đang sống chung với anh chị. Sau khi ly hôn, chị Lê Thị Th yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị H và không yêu cầu anh Nguyễn Trọng H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Trọng H đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh Nguyễn Trọng H không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngày 02/10/2018, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trọng H tại địa phương và được cung cấp: Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trọng H là vợ chồng, cùng chung sống tại số 40/22, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Từ khi vợ chồng sống tại đây, địa phương không nghe trình báo gì về mâu thuẫn giữa hai anh chị. Hiện nay anh chị vẫn còn sống chung tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án: nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự và có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Th.

+ Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 05/6/2014 cho chị Lê Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị Th không yêu cầu anh Nguyễn Trọng H cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 14/11/2018 và ngày 30/11/2018 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trọng H tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa theo Giấy chứng nhận kết hôn số 24, quyển số 01/2012 ngày 15/3/2012 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị Lê Thị Th cho rằng từ tháng 4 năm 2018 vợ chồng bắt đầu có nhiều bất đồng, không có tiếng nói chung, tính tình ngày càng không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi nhau về nhiều vấn đề trong cuộc sống, có lúc còn đánh nhau. Gia đình hai bên đều biết mâu thuẫn của anh chị, đã nhiều lần hàn gắn nhưng không có kết quả.

Hiện nay anh chị vẫn sống cùng nhà nhưng mỗi người có 01 cuộc sống riêng, không còn quan tâm chăm sóc nhau.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh Nguyễn Trọng H đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Nguyễn Trọng H không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của anh Nguyễn Trọng H đối với chị Lê Thị Th đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc anh Nguyễn Trọng H bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị Lê Thị Th cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trọng H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56Luật hôn nhân và  gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Lê Thị Th.

 [3] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thị H, sinh ngày 05/6/2014. Chị Lê Thị Th yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị H, không yêu cầu anh Nguyễn Trọng H phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu H mặc dù sống cùng cha mẹ nhưng cháu H là bé gái và hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Do đó, chị Lê Thị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị Lê Thị Th không yêu cầu anh Nguyễn Trọng H cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [5] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

 [6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Th phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Th đối với anh Nguyễn Trọng H về việc ly hôn.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Th được ly hôn với anh Nguyễn Trọng H.

- Về con chung: Buộc anh Nguyễn Trọng H giao con chung tên Nguyễn Thị H, sinh ngày 05/6/2014 cho chị Lê Thị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị Th không yêu cầu anh Nguyễn Trọng H cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Trọng H đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Nguyễn Trọng H lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Lê Thị Th nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu  nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Chị Lê Thị Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0020199, ngày 25/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Chị Lê Thị Th đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

4. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 162/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:162/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về