Bản án 165/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về không công nhận vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 165/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG

Ngày 02 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 544/2019/TLST-HNGĐ ngày 20/6/2019 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 500/2019/QĐXX-ST ngày 08/7/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lữ Thị L, sinh năm 1981 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã Trí Phải, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Anh Trần Hoàng T, sinh năm 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Cây Trâm, xã Định Bình, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Chị Lữ Thị L trình bày: chị và anh T chung sống vào năm 2010 nhưng không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh T không lo cho vợ con, gia đình. Chị và anh T đã không còn sống chung khoảng 05 năm, nay chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị và anh T có một người con chung là Lữ Như B, sinh ngày 11/5/2014. Hiện con chung đang sống chung với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Chị L xác định không có

Về nợ chung: Chị L xác định không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về phần hôn nhân: Chị L và anh T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010, có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng anh chị không đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo quy định tại điều 14 và điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình nên mối quan hệ của chị L và anh T không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Nay chị L và anh T phát sinh mâu thuẫn và chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T. Riêng anh T không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của chị L. Xét thấy chị L và anh T chung sống nhưng không đăng ký kết hôn nên mối quan hệ của anh chị không được pháp luật công nhận là vợ chồng, nay chị L yêu cầu ly hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận chị L và anh T là vợ chồng.

[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống chị L và anh T có một người con chung là Lữ Như B, sinh ngày 11/5/2014. Hiện con chung đang sống chung với chị L, khi ly hôn chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Xét yêu cầu của chị L Hội đồng xét xử xét thấy: con chung đang sống cùng chị L, riêng anh T không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị. Xét thấy yêu cầu của chị L không trái quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L về việc trực tiếp nuôi con.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử xét thấy: Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Đối với yêu cầu của chị L yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng, anh T không có văn bản hay ý kiến gì về việc có đồng ý yêu cầu trên của chị L. Do đó Hội đồng xét xử điều chỉnh lại mức cấp dưỡng thấp nhất theo quy định là không thấp hơn ½ tháng lương cơ sở do nhà nước quy định hiện nay là 1.490.000 đồng/tháng. Do đó chấp nhận yêu cầu cấp của chị L về việc yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con là 750.000 đồng/ tháng là phù hợp. Thời gian cấp dưỡng từ ngày án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Lữ Như B tròn 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 14, 15, 53, 81, 82, 83 luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tuyên bố không công nhận chị Lữ Thị L và anh Trần Hoàng T là vợ chồng.

Giao con chung là Lữ Như B, sinh ngày 11/5/2014 (đang sống chung với chị L) cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng.

Buộc anh Trần Hoàng T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là Lữ Như B 750.000 đồng/tháng. Thời gian cấp dưỡng từ ngày án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Lữ Như B tròn 18 tuổi.

Kể từ ngày chị Lữ Thị L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Trần Hoàng T không tự nguyện thi hành xong khoản tiền cấp dưỡng, thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Chị Lữ Thị L phải nộp 300.000 đồng, ngày 20/6/2019, chị Lữ Thị L có nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng (lai thu sô 0000316) tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được chuyển thu án phí.

Án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Trần Hoàng T phải nộp 300.000 đồng (chưa nộp) tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 165/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về không công nhận vợ chồng

Số hiệu:165/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về