Bản án 166/2018/HSST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TS, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 166/2018/HSST NGÀY 18/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 178/2018/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2018/QĐXX-HSST ngày 03/7/2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn N, sinh năm 1991; giới tính: Nam; tên gọi khác: Chính;

Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện M, thành phố Hà Nội;

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn phổ thông: 8/12; con ông Phạm Văn T, sinh 1969 và bà Phạm Thị T, sinh 1969; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1990 và 01 con sinh năm 2013;

Tiền án: Bản án số: 13/2016/HSST ngày 16/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đã xử phạt Phạm Văn N 08 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15 tháng 3 năm 2018 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bản Cáo trạng số: 114/CT-VKS ngày 19/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh truy tố Phạm Văn Nvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tóm tắt nội dung vụ án như sau:

Khoảng 08h00 ngày 15/3/2018, Phạm VănN, sinh năm 1991 trú tại Khu 7, thôn Th, xã Đ, huyện M, thành phố Hà Nội đi xe khách từ Mê Linh đến thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh với mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến bến xe buýt gần Bệnh viện đa khoa thị xã TS,N xuống xe đi bộ vào một ngõ nhỏ thuộc khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, thị xã TS thì gặp một người đàn ông đang cầm tiền đút qua khe cửa xếp màu trắng xám. Từ bên trong có người nhận tiền rồi đưa lại cho người đàn ông này 01 gói nhỏ màu trắng, người thanh niên cầm gói nhỏ rồi bỏ đi.Nbiết là ngôi nhà này vừa bán ma túy. Vì vậy,Nđã đi đến trước cổng ngôi nhà này lấy 300.000 đồng đút qua khe cửa sắt. Từ bên trong có ngườiNkhông nhìn thấy mặt cầm tiền rồi đưa lại choN01 gói nhỏ một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng.Ncầm gói nhỏ đút vào túi quần phía sau bên trái đang mặc rồi đi bộ đi tìm nơi sử dụng. KhiNđi được khoảg 10 phút đến đoạn khu vực phường Trang Hạ, thị xã TS thì bị Lực lương Công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ cùng vật chứng là gói nhỏ như đã nêu trên. Vật chứng là gói nhỏ đã được niêm phong có chữ ký của bị cáo và người chứng kiến.

Ngày 15 tháng 3 năm 2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh đã ra Quyết định số: 128 trưng cầu giám định chất bột màu trắng bên trong gói nhỏ thu giữ từ Phạm Văn Nnhư đã nêu trên. Yêu cầu giám định: “Mẫu vật gửi giám định có phải là ma túy không? Loại gì? Tên gọi? Trọng lượng”.

Tại bản Kết luận giám định số: 382/KLGĐMT-PC54 ngày 15 tháng 3 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh đã kết luận:

"Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng lớp giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng có khối lượng 0,3831 gam; là ma túy; Loại ma túy:Hêroin.

Heroin là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất”.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn Nđã khai nhận: Do mắc nghiện ma túy từ năm 2014, nên ngày 15/3/2018,Nđã đến khu phố Nguyễn Giáo, phường Đồng Nguyên, thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh mua ma túy tại một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín, bị cáo không nhìn thấy mặt người bên trong. Sau khi mua được 01 gói nhỏ ma túy, bị cáo quay ra đi tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì đã bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ. Vật chứng đã được niêm phong có chữ ký của bị cáo và nhân chứng. Ngoài bị thu gói ma túy bị cáo vừa mua được, bị cáo không bị thu giữ thứ gì khác. Bị cáo không nhớ vị trí ngôi nhà đã bán ma túy cho bị cáo. Các tình tiết mô tả trong bản cáo trạng Viện kiểm sát vừa công bố tại phiên tòa giống với bản cáo trạng bị cáo đã nhận được, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" là đúng người, đúng tội. Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử miễn phạt tiền cho bị cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh giữ quyền công tố tại phiên toà hôm nay, căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; ý kiến của bị cáo và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Nphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Phạm Văn N từ 20 đến 24 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/3/2018. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.

Trong phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Kết thúc phần tranh luận, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về tội danh: Lời nhận tội của bị cáo Phạm Văn N tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng với các tình tiết của vụ án mà bị cáo đã thực hiện. Vật chứng được thu giữ từ bị cáo và giám định theo đúng trình tự luật định, sau giám định đã kết luận vật chứng thu giữ từNcó khối lượng là 0,3831 gam là ma túy; loại ma tuý: Heroin. Heroin là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất. Nay là Nghị định số 73/2018 ngày 15/5/2018 quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Ma túy là chất do Nhà nước độc quyền quản lý, mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều không được tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng khi không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, nhưng Phạm Văn N vẫn tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Phạm Văn Nphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2. Về hình phạt:

- Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo phạm tội không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác. Do vậy, chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

- Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Nạn ma tuý là hiểm họa của xã hội, bị loài người cực lực lên án. Vì nó, mà không biết bao nhiêu gia đình cha mẹ mất con, vợ mất chồng, đạo đức xã hội bị băng hoại, sức khoẻ bị suy tàn, giống nòi bị thui chột, tài sản bị khánh kiệt. Đây còn là nguyên nhân trực tiếp của nhiều tội phạm nguy hiểm khác và cũng là con đường ngắn nhất để lây truyền căn bệnh vô phương cứu chữa. Biết vậy, nhưng chỉ vì thỏa mãn nhu cầu ích kỷ, đồi bại của bản thân, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, kỷ cương phép nước, lao vào ma túy, lao vào con đường phạm tội, để rồi phải đứng trước phiên tòa hôm nay chịu sự trừng phạt của pháp luật. Bản thân bị cáo có 01 tiền án: Bản án số: 13/2016/HST ngày 16/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đã xử phạt Phạm Văn N08 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 26/6/2016Nchấp hành xong phần hình phạt trở về địa phương; Ngày 11/3/2016Nchấp hành xong toàn bộ bản án. NhưngNvẫn chưa được coi là đương nhiên xóa án tích, nên lần phạm tội này bị cáo bị coi là tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm trong xã hội.

Tuy nhiên xét thấy: Sau khi phạm tội, bị cáo đã khai báo thành khẩn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không có mục đích trục lợi và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin miễn phạt tiền; Đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Liên quan trong vụ án này còn có ngôi nhà và người đã bán ma túy cho bị cáo, nhưng bị cáo không nhớ vị trí ngôi nhà, không nhìn thấy mặt người bán. Vì vậy, Cơ quan điều tra vẫn đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

3. Về các vấn đề khác:

- Về vật chứng vụ án:

Khi bắt quả tang Phạm Văn N tàng trữ ma túy, Cơ quan điều tra đã thu giữ từN01 gói ma túy có khối lượng 0,3831 gam. Vỏ đựng mẫu vật và mẫu vật còn lại được niêm phong theo quy định, có chữ ký của Giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Xét thấy, vỏ đựng mẫu vật không có giá trị sử dụng và mẫu vật còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy;

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 1 Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Xử phạt: Phạm Văn N20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 15 tháng 3 năm 2018. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 18 tháng 7 năm 2018.

3. Về các vấn đề khác:

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vỏ đựng mẫu vật và mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có chữ ký của Giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh;

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc Phạm Văn Nphải chịu 200.000 đồng án phí HSST;

- Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 166/2018/HSST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:166/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về