Bản án 169/2018/HNGĐ-ST ngày 14/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 169/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 8 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 242/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2018. Về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Ph - Sinh năm 1977 (Có mặt). Địa chỉ cư trú: ấp C R A, xã P H, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Trần Văn Kh- Sinh năm 1976 (Vắng mặt). Địa chỉ cư trú: ấp C R A, xã P H, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Chị Hồ Thị Ph trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Hồ Thị Ph và Anh Trần Văn Kh kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Sau khi kết hôn, chị Ph và anh Kh sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Ph và anh Kh bất đồng quan điểm sống dẫn đến không hòa thuận, anh chị thường hay cự cãi nhau, anh Kh không quan tâm đến gia đình. Anh Kh và chị Ph sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Tại phiên tòa, Chị Hồ Thị Ph vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Trần Văn Khang.

- Về con chung: Chị Hồ Thị Ph và Anh Trần Văn Kh có 02 người con chung tên là Trần Lệ B sinh ngày 28 tháng 6 năm 2009, Trần Trung Ngh sinh ngày 19 tháng 9 năm 2011. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay các con sống chung với chị Ph. Khi ly hôn chị Ph yêu cầu nuôi con, không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Hồ Thị Ph và Anh Trần Văn Kh tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Hồ Thị Ph xác định trong thời gian chị và Anh Trần Văn Kh chung sống không nợ ai, cũng không ai nợ vợ chồng anh chị, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tranh chấp giữa Chị Hồ Thị Ph và Anh Trần Văn Kh là tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng Dân sự. Anh Kh có địa chỉ cư trú tại ấp C R A, xã P H, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp của vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hôn nhân: Anh chị kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Do đó, hôn nhân của chị Ph và anh Kh là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của chị Ph và anh Kh thực sự có xảy ra không thể hàn gắn được nên chị Ph, anh Kh đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Tại phiên tòa, chị Ph vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Khang.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình thì chị Ph có quyền yêu cầu giải quyết việc ly hôn. Yêu cầu của chị Ph đã được Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình và pháp luật tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau tiến hành hòa giải tại Tòa án theo quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, anh Kh đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước không tiến hành hòa giải được vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự. Tòa án nhân dân huyện Cái Nước căn cứ vào Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và triệu tập anh Kh hợp lệ đến lần thứ hai với nội dung triệu tập anh Kh đến Tòa án nhân dân huyện Cái Nước để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng anh Kh vẫn vắng mặt. Do đó Tòa án nhân dân huyện Cái Nước căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Khang. Anh Kh không đến Tòa án để hòa giải và tham dự phiên tòa, cho thấy anh Kh không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Ph đối với anh Kh là phù hợp với quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

Về con chung: Hội đồng xét xử xét thấy anh Kh đã được thông báo về việc chị Ph yêu cầu ly hôn với anh và yêu cầu nuôi con chung nhưng anh Kh không có ý kiến. Từ khi chị Ph và anh Kh sống ly thân đến nay cháu Trần Lệ B và cháu Trần Trung Ngh sống chung với chị Ph đã ổn định. Riêng cháu B có nguyện vọng muốn sống chung với mẹ là chị Ph thể hiện tại Biên bản lấy lời khai ngày 03 tháng 7 năm 2018. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Ph. Giao cháu Trần Lệ B sinh ngày 28 tháng 6 năm 2009 và Trần Trung Ngh sinh ngày 19 tháng 9 năm 2011 cho chị Ph tiếp tục nuôi.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị Ph không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, Nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Chị Hồ Thị Ph tự thỏa thuận với Anh Trần Văn Kh không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Chị Hồ Thị Ph xác định trong thời gian chung sống chị và Anh Trần Văn Kh không nợ ai cũng không ai nợ vợ chồng anh chị, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Anh Kh vắng mặt và không có yêu cầu gì về tài sản và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Nếu sau này giữa các bên đương sự có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy định pháp luật.

[3] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Ph phải chịu 300.000 đồng theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 28; 35; 39; 147, 227, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 9, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận cho Chị Hồ Thị Ph được ly hôn với anh Trần Văn Khang.

Về con chung: Giao cháu Trần Lệ B sinh ngày 28 tháng 6 năm 2009 và cháu Trần Trung Ngh sinh ngày 19 tháng 9 năm 2011 cho Chị Hồ Thị Ph tiếp tục nuôi, Anh Trần Văn Kh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Hồ Thị Ph phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, đối trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0004420 ngày 14 tháng 5 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước, chị Ph nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh Trần Văn Kh không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm chị Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Văn Kh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 169/2018/HNGĐ-ST ngày 14/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:169/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về