Bản án 17/2018/DS-ST ngày 23/05/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN  HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 17/2018/DS-ST NGÀY 23/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2018/TLST- DS ngày 25 tháng 01 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2018/QĐST-DS ngày 24/4/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2018/QĐST -DS ngày 10/5/2018 giữa:

1. Nguyên đơn:

1.1. Ông Phạm Nhật Tr, sinh năm 1966

1.2. Bà Võ Tòng Ch, sinh năm 1969

Cùng trú: Tổ 8, ấp 2, xã BR, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1959

2.2. Bà Trần Thị Lệ H1, sinh năm 1963

Địa chỉ: Tổ 13, ấp 2, xã BR, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

(Ông Tr, bà Ch, bà H1 có mặt; ông Ngh vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/01/2018 và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn trình bày như sau:

Vợ chồng ông Tr và bà Ch là chủ cửa hàng bán thức ăn chăn nuôi tại xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc.

Năm 2011 thì vợ chồng ông Ngh, bà H1 bắt đầu mua cám của vợ chồng ông Tr và bà Ch, việc mua cám được thực hiện nhiều lần, mỗi khi cần mua cám thì ông Ngh và bà H1 gọi cám và ông Tr sẽ giao cám tận nhà ông Ngh và bà H1, sau mỗi đợt mua và đến khi bán heo thì ông Ngh và bà H1 đều có thanh toán, số tiền mua cám được trả dần theo từng đợt.

Đến ngày 02/5/2014 thì hai bên chốt khoản nợ theo đó bà H1 và ông Ngh còn nợ lại của ông Tr và bà Ch số tiền 71.711.000đ, sự việc này có sự xác nhận của bà H1 vào sổ theo dõi nợ của bà Ch, sau đó các bên lại tiếp tục trả tiền cho bà Ch và ông Tr từng đợt và đến ngày 02/5/2014 thì ông Ngh, bà H1 còn nợ vợ chồng ông Tr và bà Ch số tiền 55.711.000 đồng. Vợ chồng ông Tr và bà Ch đã nhắc nợ nhiều lần nhưng ông Ngh, bà H1 cố tình dây dưa, không thanh toán.

Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn Ngh và bà Lý Thị H1 trả cho vợ chồng ông Tr và bà Ch số tiền nợ gốc là 55.711.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật.

Đến ngày 02/4/2018 và tại phiên tòa hôm nay bà Ch và ông Tr có thay đổi yêu cầu khởi kiện với nội dung, nguyên đơn không yêu cầu tính lãi suất đối với món nợ 55.711.000đ tính từ ngày 12/9/2017 đến nay.

Theo bản tự khai ngày 19/3/2018 và các biên bản làm việc tiếp theo tại tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Văn Ngh và bà Trần Thị Lệ H1 trình bày như sau:

Năm 2011 thì vợ chồng ông Ngh, bà H1 bắt đầu mua cám của vợ chồng ông Tr và bà Ch, việc mua cám được thực hiện nhiều lần, sau mỗi đợt mua và đến khi bán heo thì ông Ngh và bà H1 đều có thanh toán, số tiền mua cám được trả dần theo từng đợt.

Đến ngày 02/02/2016 thì hai bên chốt khoản nợ theo đó bà H1 và ông Ngh còn nợ lại của ông Tr và bà Ch số tiền 55.771.000 đồng, quá trình làm việc tại Tòa án bị đơn xác nhận số nợ nhưng không thống nhất được phương án trả nợ đối với nguyên đơn và qua các lần hòa giải ông Ngh vắng mặt nên không thể hòa giải thành được các nội dung trên.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn - bà H1 chấp hành pháp luật và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn là ông Ngh vắng mặt trong các phiên hòa giải và tại phiên tòa là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” đối với ông Nguyễn Văn Ngh và bà Trần Thị Lệ H1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng, thẩm quyền:

Tại phiên tòa, bị đơn là ông Nguyễn Văn Ngh dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó xét xử vắng mặt ông Ngh là phù hợp với Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là “Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản” giữa ông Phạm Nhật Tr và bà Võ Tòng Ch với ông Nguyễn Văn Ngh và bà Trần Thị Lệ H1 nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc quy định tại Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung yêu cầu tranh chấp của đương sự:

Qua lời khai thừa nhận của nguyên đơn và bị đơn là bà H1 và ông Ngh đã đủ cơ sở xác định: Ông Nguyễn Nhật Tr và bà Võ Tòng Ch với bà Trần Thị Lệ H1 và ông Nguyễn Văn Ngh có quan hệ hợp đồng mua bán cám của nhau là đúng, quá trình tham gia tố tụng các bên đều thống nhất số nợ hiện nay ông Ngh và bà H1 còn nợ ông Tr và bà Ch số tiền 55.771.000đ là tiền mua bán cám và đồng ý trả số tiền này cho ông Tr bà Ch thì đây là những sự thật không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình tham gia tố tụng các bên không thống nhất được thời điểm thanh toán số nợ này, ông Tr và bà Ch yêu cầu phải thanh toán ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật, còn bà H1 thì cho rằng, cần phải có lộ trình thanh toán, mỗi tháng bà H1 chỉ trả số tiền 2.000.000đ.

Xét ý kiến của các bên cho thấy, khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán cám, các bên đều chỉ thống nhất với nhau khi bên mua cám cần thiết thì sẽ mua và được ghi nợ, bên mua sẽ thanh toán hết tiền cám khi heo xuất chuồng mà không thỏa thuận cụ thể thời điểm bên mua phải thanh toán tiền cám. Sau khi xác nhận khoản nợ vào 02/02/2016 thì các bên cũng không cam kết đến khi nào thanh toán, do đó, Hội đồng xét xử xét thấy đây là khoản nợ không xác định thời hạn, vì vậy cần buộc bị đơn phải trả số tiền 55.771.000đ cho nguyên đơn là phù hợp với các điều 302, 428 429, 438 Bộ luật dân sự năm 2005.

Về lãi suất phát sinh: Tại phiên tòa, nguyên đơn không yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pháp luật. Xét việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 24, Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 trên số tiền nguyên đơn khởi kiện được chấp nhận, cụ thể như sau:

Ông Ngh và bà H1 phải nộp (55.771.000đ x 5%) = 2.788.550đ án phí dân sự sơ thẩm;

Nguyên đơn được trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 305, 428, 429, 438 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 24, Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016; Tuyên xử:

[1]. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về lãi suất theo quy định của pháp luật của số tiền 55.771.000đ.

[2]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Nhật Tr bà Võ Tòng Ch về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” đối với ông Nguyễn Văn Ngh và bà Trần Thị Lệ H1.

Buộc ông Nguyễn Văn Ngh và bà Trần Thị Lệ H1 phải hoàn trả cho bà Võ Tòng Ch và ông Phạm Nhật Tr số tiền 55.771.000đ.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải chịu thêm khoản tiền lãi tính theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án và số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thanh toán.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Nguyễn Văn Ngh và bà Trần Thị Lệ H1 phải nộp số tiền 2.788.550đ án phí dân sự sơ thẩm;

- Bà Võ Tòng Ch và ông Phạm Nhật Tr được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí là 1.375.000đ (Một triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007314 ngày 12/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc được niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/DS-ST ngày 23/05/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:17/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về