Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 17/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ LY HÔN

Vào ngày 31 tháng 01 năm 2018, tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 725/2017/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2017 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1996.

Địa chỉ: thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Nhật T, sinh năm: 1990.

Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 12 tháng 12 năm 2017 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: trên cơ sở tự nguyện, chị và anh Nguyễn Nhật T tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông vào ngày 17 tháng 3 năm 2015. Đây là hôn nhân lần đầu của cả hai.

Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân vợ chồng do bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau. Chị và anh Nguyễn Nhật T không sống chung với nhau từ tháng 3-2016 đến nay. Anh Nguyễn Nhật T đã cùng gia đình chuyển nhà về ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai để sinh sống. Thời gian qua chị và anh Nguyễn Nhật T không liên lạc với nhau để giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng. Đến nay, tình cảm không còn, hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Nhật T.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Nhật T trình bày: anh thống nhất với lời trình bày của chị Nguyễn Thị T về điều kiện kết hôn. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc nhưng có thể do áp lực cuộc sống gia đình nên chị Nguyễn Thị T bỏ về nhà mẹ ruột sống từ tháng 3 năm 2016. Thời gian đó, anh có qua lại để hòa giải hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Đến tháng 10-2016, gia đình anh chuyển về ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai sinh sống, từ đó đến nay anh không gặp lại chị Nguyễn Thị T. Hiện nay tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị T nhưng anh đề nghị Toà án xem xét giải quyết theo quy định.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện Xuân Lộc: về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và sự chấp hành pháp luật của các đương sự cơ bản đúng pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: về quan hệ hôn nhân, cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Nhật T; về con chung không có; về tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: chị Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Nhật T hiện đang cư trú tại ấp T, xã X, huyện X nên quan hệ pháp luật là “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc.

[2] Về tư cách tham gia tố tụng: chị Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Nhật T nên chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn, anh Nguyễn Nhật T là bị đơn.

[3] Về thủ tục tố tụng: chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T có đơn xin xét xử vắng mặt nên xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo luật định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Nguyễn Thị T cho rằng cuộc hôn nhân giữa chị và anh Nguyễn Nhật T không có hạnh phúc, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau. Anh Nguyễn Nhật T cho rằng vợ chồng sống hạnh phúc nhưng do áp lực gia đình nên vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 3-2016 đến nay. Mặc dù anh Nguyễn Nhật T cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn nhưng trong thời gian không chung sống vợ chồng không có liên lạc, quan tâm đến nhau, như vậy đã đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nên chấp nhận cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Nhật T là phù hợp.

[5] Về con chung: không có.

[6] Về tài và nợ chung: chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T trình bày không có nên không xem xét.

[7] Về án phí: chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Xét thấy, nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Nhật T.

- Về con chung: không có.

- Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét giải quyết.

- Về án phí: chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 008051 ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc, chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Nhật T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về ly hôn

Số hiệu:17/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về