Bản án 17/2018/HS-ST ngày 26/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 17/2018/HS-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở UBND xã Long Phúc, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2018/HSST, ngày 01/6/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Lương Văn D (tên gọi khác: không) - Sinh năm 1980 tại Bảo Yên - Lào Cai. Nơi cư trú: bản Nặm Cằm, xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Thâm và bà Nông Thị Danh; Bị cáo có vợ là Cổ Thị Ván và 02 con;  tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 11/11/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày 11/11/2015 về tội “Đánh bạc”, ngày 12/11/2016 bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách, ngày 25/3/2016 đã chấp hành xong án phí nên đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ ngày 04/4/2018, bị tạm giam từ ngày 07/4/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 03/4/2018, Lương Văn D, sinh năm 1980, trú tại bản Nặm Cằm, xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai gọi điện thoại cho chị Liễu, sinh năm 1975, trú tại bản Pác Mạc, xã Vĩnh Yên, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai hỏi “Chị Liễu à, có hàng không, chị lấy cho em 10 chỉ”, chị Liễu trả lời “Có, sáng mai mới có”, khi đó Liễu hiểu là Dưỡng muốn hỏi mua thuốc phiện. Đến khoảng 06 giờ ngày 04/4/2018, Dưỡng tiếp tục gọi điện cho chị Liễu hỏi có hàng chưa để đến lấy, lúc này chị Liễu nói với Dưỡng “Đi ra thị trấn Phố Ràng, gặp ở đâu thì giao hàng ở đó”. Sau khi gọi điện thoại cho chị Liễu xong, Dưỡng lấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu xanh đen, biển kiểm soát 24Y1- 154.29 đi từ nhà theo quốc lộ 279 ra thị trấn Phố Ràng. Khi đi đến bản Mỏ Đá thuộc xã Tân Dương, huyện Bảo Yên thì Dưỡng gặp chị Liễu điều khiển xe mô tô đi ngược chiều, cả hai dừng xe, Liễu lấy từ túi áo mưa bên phải 01 gói ni lon màu trắng bên trong có 02 gói nhỏ ni lon màu trắng bên trong có chứa chất nhựa màu nâu là thuốc phiện đưa cho Dưỡng, Dưỡng nhận rồi dùng tay phải cầm số thuốc phiện đó cất vào túi áo ngực bên trái của áo khoác đang mặc trên người. Sau khi lấy thuốc phiện xong, Dưỡng nói với chị Liễu “Chiều em trả 7.000.000đ”, Liễu đồng ý và đi xe theo quốc lộ 279 vào xã Vĩnh Yên, huyện Bảo Yên còn Dưỡng đi xe mô tô ra thị trấn Phố Ràng; khi Dưỡng đang đứng ở gần cổng chợ thuộc địa phận tổ 5A, TT Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai thì bị lực lượng Công an huyện Bảo Yên yêu cầu kiểm tra. Biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Dưỡng đã tự giác giao nộp số ma túy vừa mua được cho lực lượng Công an.

Ngày 04/4/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Yên đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với 02 gói ma túy (chất nhựa màu nâu) thu giữ của Lương Văn D.

Tại kết luận giám định số 74/GĐMT ngày 06/4/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai, kết luận: 02 gói chất nhựa màu nâu thu giữ của Lương Văn D ngày 04/4/2018 có khối lượng 51,92 gam là thuốc phiện.

Bản Cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 31/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên đã truy tố bị cáo Lương Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 khoản 1 điểm b Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Văn D thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ ma túy của mình như kết luận điều tra của cơ quan điều tra và bản cáo trạng viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; tuyên xử lý vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật. Về hình phạt bổ sung: do bị cáo không có việclàm, không có thu nhập và tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Bảo Yên, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra huyện Bảo Yên, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo Lương Văn D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về xác định tội phạm và áp dụng pháp luật: Ngày 03/4/2018, Lương Văn D gọi điện thoại cho người phụ nữ tên Liễu để hỏi mua thuốc phiện, chị Liễu đồng ý. Sáng 04/4/2018 chị Liễu đã bán cho Dưỡng 02 gói nhỏ ni lon màu trắng bên trong có chứa chất nhựa màu nâu, bị cáo khai là thuốc phiện. Dưỡng nhận rồi dùng tay phải cầm số thuốc phiện đó cất vào túi áo ngực bên trái của áo khoác đang mặc trên người. Sau khi lấy thuốc phiện xong, Dưỡng nói với chị Liễu “Chiều em trả 7.000.000đ”, Liễu đồng ý, sau đó Dưỡng đi xe mô tô ra thị trấn Phố Ràng, Bảo Yên. Khi Lương Văn D đang đứng ở gần cổng chợ Phố Ràng, huyện Bảo Yên thì bị lực lượng Công an huyện Bảo Yên yêu cầu kiểm tra. Biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Dưỡng đã tự giác giao nộp số ma túy vừa mua được cho lực lượng Công an. Tại kết luận giám định số 74/GĐMT ngày 06/4/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai, kết luận: 02 gói chất nhựa màu nâu thu giữ của Lương Văn D ngày 04/4/2018 có khối lượng 51,92 gam là thuốc phiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản ghi lời khai của người chứng kiến cũng như các lời khai khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lương Văn D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên truy tố đối với bị cáo Lương Văn D về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo nhận thức rất rõ về rõ tác hại của ma túy và chế độ độc quyền, thống nhất quản lý chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (thuốc phiện) với khối lượng 11,34 gam để sử dụng làm thuốc. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, thể hiện như sau: Ngày 11/11/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày 11/11/2015 về tội “Đánh bạc”, ngày 12/11/2016 bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách, ngày 25/3/2016 đã chấp hành xong án phí nên đã được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội, vì vậy Tòa xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo Lương Văn D còn có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Nhưng do bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về việc xử lý vật chứng: Đối với 02 gói thuốc phiện có khối lượng là 51,92 gam, Cơ quan giám định đã tiến hành giám định và lưu mẫu không hoàn lại 28,62 gam và hoàn lại 23,30 gam thuốc phiện cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen là phương tiện bị cáo liên lạc để mua ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu xanh đen, biển kiểm soát 24Y1 -154.29 là tài sản chung của bị cáo và vợ là Cổ Thị Ván, chị Ván không biết việc Dưỡng lấy xe máy đi mua ma túy vì vậy Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Cổ Thị Ván là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này, còn có chị Đỗ Kim Liễu, sinh năm 1975, trú tại bản Pác Mạc, xã Vĩnh Yên, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Quá trình điều tra, bị cáo Dưỡng khai mua ma túy của chị Liễu nhưng chị Liễu khai có quen biết với Dưỡng và không được bán ma túy cho Dưỡng, cơ quan điều tra xét thấy chưa đủ căn cứ để xử lý đối với chị Liễu là đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lương Văn D 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 04/4/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 23,30 gam thuốc phiện được niêm phong trong bì thư in sẵn của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt của phong bì niêm phong có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Lương Văn D có hành vi phạm tội về ma túy”. Phát hiện (thu giữ) ngày 04/4/2018 tại tổ 5a, thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu trắng, kiểu máy bàn phím, máy cũ đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng bên trong của máy.

(Các vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/6/2018 giữa Công an huyện Bảo Yên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Yên).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Lương Văn D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo Lương Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HS-ST ngày 26/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về