Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nam Đàn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 74/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/6/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1985.

Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Xóm MS, xã NK, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Đặng Thanh H, sinh năm 1980.

Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: XH, xã NK, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 08/3/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị O trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị O kết hôn với anh Đặng Thanh H vào ngày 13/12/2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NK, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn 5 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình, quan điểm, cách sống không hợp nhau, anh H không có lập trường, nhu nhược, không có trách nhiệm với gia đình, chăm lo cho vợ con. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị và con gái về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, sau đó chị đi làm ở miền nam và vợ chồng sống ly thân khoảng 4 năm nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị O yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đặng Thanh H.

Về con chung: Chị O và anh H có 02 con chung: Cháu Đặng Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2007 và cháu Đặng Quốc T, sinh ngày 23/3/2011. Ly hôn, chị O có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu N cho đến khi đủ tuổi trưởng thành, nhường cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T cho đến khi đủ tuổi trưởng thành, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và khoản nợ chung: Chị O không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên toà sơ thẩm, bị đơn anh Đặng Thanh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về ngày tháng năm, đ ịa điểm, điều kiện kết hôn đúng như chị O trình bày. Hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc. Vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn thì cũng chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống. Anh H thừa nhận từ khi chị O đi giúp việc gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh thì tình cảm vợ chồng không còn được như trước. Chị O làm đơn ly hôn thì anh không đồng ý, anh H có nguyện vọng được đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con.

Về con chung: Anh Hải và chị O có 02 con chung: Đặng Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2007 và Đặng Quốc T, sinh ngày 23/3/2011. Nếu vợ chồng phải ly hôn, anh H nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T cho đến khi cháu trưởng thành và không yêu cầu chị O cấp dưỡng. Nhường cho chị O được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu N.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành xác minh về tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H tại địa phương thì được biết : Chị O và anh H kết hôn năm 2005, hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm H, xã NK, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Vợ chồng chung sống được khoảng 4 - 5 năm thì có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể thì địa phương không nắm rõ, hiện tại hai vợ chồng đã ly thân. Anh H và chị O có 02 người con, con gái sống với chị O, con trai sống với anh H.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền, xác định quan hệ tranh chấp; Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ, tống đạt đảm bảo quyền của đương sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự từ Điều 139 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn anh Đặng Thanh H.

Về con chung: Giao con chung Đặng Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2007 cho chị Nguyễn Thị O được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ tuổi trưởng thành. Giao con chung Đặng Quốc T, sinh ngày 23/3/2011 cho anh Đặng Thanh H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ tuổi trưởng thành. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị O yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đặng Thanh H có địa chỉ cư trú tại xã NK, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H kết hôn ngày 13/12/2005 do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NK, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; hôn nhân hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, chị O cho rằng anh H không có lập trường, nhu nhược, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân khoảng 4 năm nay. Chị Nguyễn Thị O xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Đặng Thanh H. Còn anh Đặng Thanh H xác định đang còn tình cảm với chị O nên mong muốn đoàn tụ vợ chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình, nuôi dạy con cái trưởng thành. Mặc dù không muốn ly hôn nhưng Anh H cũng không có biện pháp gì để hàn gắn, cải thiện mối quan hệ vợ chồng. Anh H thừa nhận tình cảm vợ chồng không được như trước kể từ khi chị O đi giúp việc tại Thành phố Hồ Chí Minh và vợ chồng đã sống ly thân khoảng 4 năm nay, mỗi người sống một nơi mà không quan tâm gì đến nhau. Xét thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cần xử cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn anh Đặng Thanh H

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H có 02 con chung: Đặng Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2007 và Đặng Quốc T, sinh ngày 23/3/2011. Chị O và anh H thỏa thuận, thống nhất giao con Đặng Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2007 cho chị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con Đặng Quốc T, sinh ngày 23/3/2011 cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy sự thỏa thuận này là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm Điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với nguyện vọng của con nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này.

Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con thì người không trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

[4] Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5].Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6]. Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị O.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H.

2. Về nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H: Giao con chung Đặng Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2007 cho chị Nguyễn Thị O trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con trưởng thành, đủ 18 tuổi. Giao con chung Đặng Quốc T, sinh ngày 23/3/2011 cho anh Đặng Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con trưởng thành, đủ 18 tuổi. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002193 ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chị O đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị O và anh Đặng Thanh H có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/6/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về