Bản án 17/2019/HS-ST ngày 22/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HSngày 03 tháng 01 năm 2019; các  quyết định hoãn phiên tòa ngày 17-01-2019, 20-02-2019 và 20-3-2019, đối với bị cáo:

Phạm Thành C (tên gọi khác: C Đ), sinh năm 1990 tại tỉnh Hòa Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số X, Khu phố Y, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Hồ Thị B; có vợ là Lê Huỳnh M và 01 con; bị bắt tạm giam trong vụ án khác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L - Có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Phước H, địa chỉ: Tổ dân phố Z, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 01-4-2017, khi thấy Trịnh Văn D và Vũ Thành A đánh nhau tại khách sạn L Đắk Nông, thuộc tổ dân phố K, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông (nơi Trịnh Văn D làm bảo vệ) thì Lê Ngọc T và Đ (chưa xác định được lai lịch) đuổi đánh Vũ Thành A. Khi biết sự việc trên, Nguyễn V (là em họ của Vũ Thành A) đến gặp Trịnh Văn D nói chuyện giải hòa. Đến khoảng 20 giờ ngày 02-4-2017, Vũ Thành A, Lê Việt B và Lê Thanh S cùng một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đến khách sạn L Đắk Nông tìm đánh Lê Ngọc T và Đ nhưng không gặp nên Vũ Thành A cùng Lê Việt B và Lê Thanh S xông vào đánh Trịnh Văn D, sau đó được mọi người can ngăn nên chưa ai bị thương tích gì.

Khoảng 07 giờ ngày 03-4-2017, Trịnh Văn D gọi điện thoại cho Đinh Quang V (nơi đăng ký đăng thường trú tại thành phố B, tỉnh Đồng Nai) nhờ Đinh Quang V đưa người lên đánh nhóm của Vũ Thành A. Sau đó, Đinh Quang V gọi điện cho Hà Thanh T, Phạm Thành C cùng nhiều đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân lai lịch) ở tỉnh Đồng Nai đến tập trung tại quán cà phê G của Nguyễn Văn A tại phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Tiếp đó, Đinh Quang V nói Hà Thanh T đi thuê 02 xe ô tô Innova biển kiểm soát 60A - 063.64 và 60A - 179.09 của tiệm H ở địa chỉ: U, khu phố J, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Sau đó, Hà Thanh T và Nguyễn Văn A mỗi người điều khiển 01 xe ô tô chở Đinh Quang V, Phạm Thành C và nhiều đối tượng khác từ tỉnh Đồng Nai đến tỉnh Đắk Nông.

Để chuẩn bị cho việc đánh nhau Trịnh Văn D lấy trong phòng của mình 01 kiếm Nhật, 01 con dao phát, 01 cây gậy đánh bóng chày và nhặt nhiều cây gỗ trong khách sạn L, đi mua 30 cái khăn quàng đỏ học sinh mục đích là để buộc trên tay, trên đầu để phân biệt người của hai nhóm tránh trường hợp đánh nhầm vào người của nhóm mình, đồng thời mua thêm 05 con dao phát, rồi bỏ tất cả hung khí vào cốp xe ô tô biển kiểm soát 48A - 118.23 (do Trịnh Văn D mượn của anh Hoàng Quốc T trú tại tổ dân phố F, phường N, thị xã G). Khoảng 18 giờ ngày 03-4-2017, nhóm người của Đinh Quang V đến thị xã G, tỉnh Đắk Nông thì Trịnh Văn D đưa Nguyễn Đình S, Nguyễn Đạt T cùng nhiều đối tượng khác tại Đắk Nông là người của Trịnh Văn D và nhóm người của Đinh Quang V đi ăn tối, rồi vào sàn nhảy ở khách sạn L chơi.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Trịnh Văn D điện thoại cho Nguyễn V yêu cầu Nguyễn V phải đưa những người đã đánh mình tối 02-4-2017 ra gặp và xin lỗi Trịnh Văn D nhưng Nguyễn V từ chối. Sau đó, Trịnh Văn D và Nguyễn V thách thức và hẹn gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn bằng việc đánh nhau, Trịnh Văn D cho Nguyễn V thời gian chuẩn bị người và chọn địa điểm gặp nhau. Sau đó, Nguyễn V gọi điện cho Vũ Thành A, Vũ Xuân S, Lê Việt B, Nguyễn Tiến H, Phạm Ngọc Hoài S, Nguyễn Văn D, K’L, Phạm Hồng H, Nguyễn Phước H, Ngô Minh L, Hứa Khắc H và Lê Thanh S cùng nhiều đối tượng khác (khoảng gần 30 người) đến tiệm cầm đồ L, đường T, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, để chuẩn bị hung khí và bàn kế hoạch đánh nhau với nhóm của Trịnh Văn D. Để chuẩn bị cho việc đánh nhau Nguyễn V nói Vũ Thành A đi mua 14 con dao phát, Nguyễn V lấy trong nhà ra 02 cây gậy đánh bóng chày và những đối tượng khác mang theo nhiều tuýp sắt đến. Do tập trung đông người sợ công an nghi ngờ, nên khoảng 22 giờ cùng ngày các đối tượng đưa tất cả các loại hung khí lên xe ô tô biển kiểm soát 51F - 992.66 do Nguyễn Tiến H điều khiển, ô tô biển kiểm soát 48A - 027.68 do Phạm Ngọc Hoài S điều khiển và ô tô biển  kiểm soát 93A -061.48 do Ngô Minh L điều khiển cùng một số xe ô tô khác (chưa xác định được) đi đến tụ tập ở sân quán cà phê G của Nguyễn Tiến H tọa lạc tại tổ G, phường N, thị xã G để chờ Nguyễn V thông báo thời gian và địa điểm đánh nhau thì xuất phát. Khi đến sân quán cà phê G các đối tượng lấy hung khí chia nhau cầm trên tay. Lúc này, tiệm cầm đồ L chỉ còn lại Nguyễn V, Vũ Thành A, Vũ Xuân S và Lê Việt B.

Khoảng 23 giờ cùng ngày, Trịnh Văn D điện thoại cho Nguyễn V và thống nhất gặp nhau ở trước nhà hàng H trên đường T, thuộc tổ dân phố G, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Sau đó, Trịnh Văn D đưa khăn quàng đỏ cho các đối tượng buộc vào tay, vào đầu rồi Trịnh Văn D điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 48A - 118.23 chở theo Lê Ngọc T, Đ và một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân lai lịch), Hà Thanh T và Nguyễn Văn A mỗi người điều khiển  01 xe Innova chở Đinh Quang V, Phạm Thành C và các đối tượng khác xuất phát từ khách sạn L đến tập trung ở đầu cầu Qua Tràn cách nhà hàng H khoảng100m chờ nhóm của Nguyễn V. Tiếp đó, các đối tượng lấy hung khí trên xe củaTrịnh Văn D cầm trên tay, trong đó Trịnh Văn D cầm 01 kiếm, Nguyễn Đình S cầm 01 cây gậy đánh bóng chày, Nguyễn Đạt T nhặt 02 cục bê tông cầm trên tay, Đinh Quang V cầm 01 cây gậy đánh bóng chày, những đối tượng còn lại chưa xác định được cầm hung khí gì. Cùng lúc này Nguyễn V, Vũ Thành A, Vũ Xuân S, Lê Việt B đi trên 01 xe taxi từ tiệm cầm đồ L về hướng nhà hàng H. Trên đường đi, Nguyễn V mua thêm 03 con dao thái lan, mỗi người giữ 01 con dao. Sau đó, Nguyễn V điện thoại thông báo cho các đối tượng đang tập trung ở sân quán G biết địa điểm, thì các đối tượng này cầm hung khí lên các xe do Nguyễn Tiến H, Ngô Minh L, Phạm Ngọc Hoài S điều khiển và một số xe ô tô khác (chưa xác định được do ai điều khiển) để đến điểm hẹn. Đến nơi, các đối tượng bên nhóm Nguyễn V cởi trần để phân biệt người của nhóm mình, sau đó Nguyễn V và Vũ Thành A và Vũ Xuân S mỗi người cầm 01 dao thái lan, Lê Việt B cầm 01 gậy đánh bóng chày, Nguyễn Văn D cầm 01 tuýp sắt, K’ L cầm 01 gậy tre, Phạm Hồng H cầm 01 tuýp sắt, Nguyễn Phước H cầm 01 dao phát, Hứa Khắc H cầm 01 gậy đánh bóng chày, Lê Thanh S cầm 01 gậy đánh bóng chày, những đối tượng còn lại chưa xác định được cầm hung khí gì. Sau đó, các đối tượng của hai nhóm cầm hung khí lao vào đánh nhau được khoảng 03 phút thì Phạm Thành C sử dụng súng bắn chỉ thiên nhiều phát hướng về phía nhóm người của Nguyễn V. Khi nghe tiếng súng các đối tượng nghĩ là do lực lượng công an bắn nên bỏ chạy khỏi hiện trường. Quá trình đánh nhau Nguyễn Phước H bị người bên phía Trịnh Văn D sử dụng hung khí chém khuyết một vùng da cơ và xương sọ. Thấy vậy, Phạm Ngọc Hoài S điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Phước H và Phạm Hồng H đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Đ cấp cứu. Các đối tượng khác nhóm của Nguyễn V tập trung về quán cà phê G, rồi tự giải tán. Còn nhóm người phía Trịnh Văn D tập trung về khách sạn L cất giấu hung khí; Hà Thanh T và Nguyễn Văn A điều khiển 02 xe ô tô chở Đinh Quang V, Phạm Thành C và các đối tượng khác đi về tỉnh Đồng Nai. Sau đó, Phạm Thành C bỏ trốn, đến ngày 12-6-2018 bị bắt theo lệnh truy nã trong vụ án khác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Long An

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 94 ngày 10-4-2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ, kết luận tỷ lệ thương tích của Nguyễn Phước H là 36%.

Bản kết luận giám định số 2565 ngày 07-8-2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố H kết luận: 03 vỏ đạn và 01 viên đạn cùng ký hiệu WCC 71 là loại đạn cỡ 11,43mm x 23mm, thường để sử dụng bắn cho súng ngắn Colt 45; dấu vết trên 03 vỏ đạn phù hợp do súng quân dụng bắn ra; 03 vỏ đạn thu tại hiện trường vụ án tại tỉnh Đắk Nông và 03 vỏ đạn đã bắn ký hiệu RA 69, WCC 71 thu tại hiện trường vụ án tại tỉnh Long An là do cùng một khẩu súng bắn ra.

Cáo trạng số: 01/CTr-VKS(P1) ngày 14-12-2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Phạm Thành C về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự 2015 và tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Thành C phạm tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Thành C từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội“Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, tổng hợp hình phạt chung của hai tội từ 07 đến 08 năm tù. Trách nhiệm dân sự đã được giải quyết tại bản án số: 09/2018/HS-ST ngày 13-4-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hìnhphạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Nông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo; bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được thẩm tra công khai tại phiên tòa và phù hợp với các tình tiết, diễn biến của vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống hàng ngày nên Trịnh Văn D đã chuẩn bị nhiều hung khí và nhờ Đinh Quang V cùng một số người khác trong đó có Phạm Thành C đánh nhau với nhóm người bên phía Nguyễn V. Khi đi, bị cáo Phạm Thành C đã chuẩn bị sẵn 01 khẩu súng Colt 45 và đạn mang theo. Quá trình các đối tượng nhóm của Trịnh Văn D chuẩn bị hung khí bị cáo đã biết được có việc đánh nhau giữa nhóm của bị cáo và nhóm người khác. Hậu quả xảy ra, khoảng 23 giờ ngày 03-4-2017 trên đường T, thuộc tổ dân phố G, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, nhóm của Trịnh Văn D đã sử dụng kiếm, dao phát và nhiều loại hung khí khác đánh nhau gây ra thương tích thương tích đối với Nguyễn Phước H tỷ lệ 36% (là người nhóm thuộc nhóm của Nguyễn V). Trong quá trình hai nhóm đánh nhau, Phạm Thành C đã sử dụng khẩu súng Colt 45 bắn nhiều phát chỉ thiên. Như vậy, mặc dù bị cáo Phạm Thành C không trực tiếp gây ra thương tích đối với bị hại, song sự có mặt của bị cáo đã giúp sức về mặt tinh thần đối với các bị cáo khác, củng cố quyết tâm hành động của các bị cáo khác. Do vậy, hành vi của bị cáo Phạm Thành C đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” và “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Mặc dù, hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Thành C thực hiện vào ngày 03-4- 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật). Tuy nhiên, bị cáo bị Phạm Thành C bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông truy tố theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có lợi cho bị cáo, cụ thể tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 05 năm đến 15 năm tù.

Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí,…vũ khí nguy hiểm;

i) Có tính chất côn đồ

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”. Điều 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.”

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác và xâm phạm đến chính sách quản lý vũ khí quân dụng của Nhà nước ta. Do đó, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đảm bảo sự công bằng đối với các bị cáo khác và mục đích của hình phạt. Song, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, Hội đồng xét xử có căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo. Đối với hành vi của các bị cáo khác và trách nhiệm dân sự trong vụ án đã được giải quyết tại Bản án số: 09/2018/HS-ST ngày 13-4-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thành C phạm tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

1.1. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Thành C 05 (Năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”;

1.2. Áp dụng khoản1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Thành Công  02 (Hai) năm tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;

1.3. Áp dụng khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 07 (Bảy) năm tù, tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Thành C phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 22/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về