Bản án 175/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 175/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/7/2017 Tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Mường Ph, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 176/2017/HSST ngày 30/6/2017 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Vàng Thị L - SN 1966 tại Điện Biên; Tên gọi khác: Không

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản Lọng H, xã Mường Ph, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Dân tộc: H’Mông; Quốc tịch: Việt nam; Tôn giáo: Không.

Con ông: Vàng Chứ M (Đã chết); Con bà: Mùa Thị P - SN 1936

Chồng: Cứ A D (Tên gọi khác: Cứ Và Ch) sinh năm 1958

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo có 06 con, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1999. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2017 có mặt tại phiên toà.

2. Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Xuân

Là Luật sư - Cộng tác viên trung Tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh ĐiệnBiên, có mặt.

3. Người phiên dịch: Mùa A K

Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Vàng Thị L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 23/3/2017 khi L đang ở nhà thì bị tổ công tác phối hợp giữa công an xã Mường Ph với đồn Công an Nà T vào nhà kiểm tra vận động giải thích, Vàng Thị L đã tự giác lấy 12 gói hêrôin ra Lu giấu trong túi vải màu đen đang đeo trước bụng rồi giao nộp cho tổ công tác.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng hồi 17 giờ 30 phút ngày 23/3/2017của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Vàng Thị L có trọng lượng là 0,82 gam, trích mẫu 0,29 gam đi giám định còn lại 0,53 gam

Tại Bản kết luận giám định số 361/GĐ- PC54 ngày 25/04/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Số mẫu vật gửi giám định thu giữ của Vàng Thị L là hêrôin. Không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định.

Tại bản Cáo trạng số 110/QĐ-VKS- HS ngày 28/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Vàng Thị L về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại Khoản 1 Điều 194/BLHS;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194 BLHS, điểm p khoản 1 điều 46 BLHS: Tuyên phạt bị cáo Vàng Thị L từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a, đ khoản 2 điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 0,82 gam hêrôin, trích mẫu 0,29 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu. Tịch thu tiêu hủy chiếc túi vải màu đen có dây đeo là vật chứng vụ án.

Về án phí: Căn cứ Điều 99 BLTTHS và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo có sổ hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí, đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí cho bị cáo

Người bào chữa nhất trí với cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án. Đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đề nghị. Nhất trí với việc áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, việc không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo. Tuy nhiên người bào chữa đưa ra các luận điểm như bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức xã hội thấp và lạc hậu nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, mua ma túy chủ yếu với mục đích để sử dụng có ai hỏi thì bán song chưa bán được cho ai nên chưa gây hậu quả ra xã hội. Mặt khác khi cơ quan Công an đến kiểm tra đã tự giác giao nộp số hêrôin cho tổ công tác, trọng lượng hêrôin ở mức thấp. Từ những luận điểm trên người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS: "Người phạm tội tự thú" và một tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị từ đó cho bị cáo hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ. Trên cơ sở đó áp dụng điều 47 BLHS và điều 18, điều 52 BLHS cho bị cáo hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát không nhất trí với đề nghị áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS do đó không đủ căn cứ áp dụng điều 47 BLHS như đề nghị của người bào chữa, giữ nguyên quan điểm như bản Luận tội, đề nghị HĐXX xem xét quyết định.

Bị cáo không bổ sung gì vào lời bào chữa và không có tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vàng Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với cáo trạng truy tố cũng như vật chứng thu giữ.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Vào ngày 22/3/2017, tại nhà mình ở Bản Lọng H, xã Mường Ph, huyện Điện Biên, L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,82 gam hêrôin với mục đích sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Mặc dù bị cáo chưa kịp bán cho ai song hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo Vàng Thị L đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Người bào chữa đề nghị áp dụng thêm điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS, điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS mà Đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị. Từ đó áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 18, Điều 52 BLHS để xem xét cho bị cáo dưới mức hình thấp nhất quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS đối với bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là những người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

Xét tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi tàng trữ 0,82 gam hêrôin với mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời thì hành viphạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của Điều 194/BLHS năm 1999 với khung hình phạt từ 2 đến 7 năm tù.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Vàng Thị L sinh ra và lớn lên tại Điện Biên. Bản thân không được đi học. Năm 1986 kết hôn với Cứ A D (Cứ Và Ch) sinh được 06 người con. Ngày 27/12/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 07 năm tù về tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Ngày 15/11/2011 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống. Hiện bị cáo đã được xóa án tích. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm2013. Bị cáo không có tình tiết  tăng nặng nào song bị cáo là người có nhân thân xấu. HĐXX xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS.

HĐXX xét thấy tội phạm bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, hơn nữa bị cáo lại đang nghiện ma túy. Cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thêm thời gian cải tạo, cai nghiện, để suy nghĩ và cải sửa lỗi lầm. HĐXX sẽ cân nhắc để áp dụng một mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo

Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 194/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo chỉ làm ruộng lại mắc nghiện nên không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Trong quá trình điều tra bị cáo L khai nguồn gốc số hêrôin bị cáo bị thu giữ là mua của người đàn ông dân tộc Thái không rõ địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được nên HĐXX không xem xét.

Vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, đ khoản 2 điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,82 gam hêrôin, trích mẫu 0,29 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu. Tịch thu tiêu hủy chiếc túi vải màu đen có dây đeo là vật chứng vụ án

Về án phí: Căn cứ Điều 99/BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Xét thấy bị cáo có sổ hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí, HĐXX miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Thị L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”

- Áp dụng Khoản 1 Điều 194 BLHS; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Vàng Thị L: 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 23/3/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

2. Vật chứng: Căn cứ điểm a, đ khoản 2 điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,82 gam hêrôin, trích mẫu 0,29 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu. Tịch thu tiêu hủy chiếc túi vải màu đen có dây đeo là vật chứng vụ án

(Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên vào hồi 08 giờ 50 phút ngày 25/7/2017).

3. Về Án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí cho bị cáo.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 28/7/2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:175/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về