Bản án 175/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 175/2019/HS-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 148/2019/TLST-HS ngày 4 tháng 04 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số /2019/QĐXXST-HS ngày tháng năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Quốc T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 18/7/1995, tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh;

Nơi cư trú: Thôn 1, xã T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ văn hóa: Lớp 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Đoàn thể: Không;

Họ tên bố: Lê Văn Ảnh, sinh năm 1959;

Họ tên mẹ: Phạm Thị Oanh, sinh năm 1963;

Đều trú tại: Thôn 1, xã T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 13/12/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh.

2. Họ và tên: Đỗ Văn L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 03/12/1992, tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh;

Nơi cư trú: Thôn 1, xã T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Đoàn thể: Không;

Họ tên bố: Đỗ Văn Hòa, sinh năm 1965;

Họ tên mẹ: Trương Thị Khở, sinh năm 1966;

Đều trú tại: Thôn 1, xã T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Nguyễn Thị Thu Ngân, sinh năm: 1991,

Trú tại: Thôn 1, xã T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh;

Có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014 ; Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị bắt theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 14/12/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh. 

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn C – Sinh năm 1988. (Trú tại: khu 7, phường Nam Hòa, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh). Vắng mặt.

Anh Trần Minh H1 - Sinh năm 1989. (Trú tại: Tổ 6, khu 3, phường Q, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh). Vắng mặt.

Anh Nguyễn Tiến D - Sinh năm 1981. (Trú tại: Tổ 6, khu 3, phường Q, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh). Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ ngày 13/12/2018, Lê Quốc T và Đỗ Văn L cùng bàn bạc thống nhất mỗi người bỏ ra 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) để mua ma túy về cùng sử dụng. Sau đó cả hai đến nhà anh Trần Minh H1 tại khu vực Bến Than thuộc phường Q chơi và nhờ anh H1 chở đến thành phố Uông Bí để lấy đồ (L không nói rõ với anh H1 là đi mua ma túy), anh H1 đồng ý và gọi thêm anh Nguyễn Văn C đi cùng. Trên đường đi, L gọi điện cho đối tượng tên Hoàng, trú tại thành phố Uống Bí thỏa thuận mua 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) ma túy loại “ketamin” và 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) loại ma túy “đá” và hẹn mua bán tại khu vực Ngã 3, Sông Khoai,thành phố B, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 19 giờ cùng ngày, cả nhóm đến quán nước chè tại khu vực ngã 3 Sông Khoai uống nước và đợi L giao dịch với Hoàng. L đưa cho Hoàng số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) và nhận lại 01 túi nilon đựng ma túy “đá” và 01 túi nilon đựng ma túy “ke”, tin tưởng Hoàng nên L không mở ra kiểm tra. Sau đó, cả nhóm quay lại thị xã Q, C và H1 đi về nhà còn L và T đi thuê nhà nghỉ để sử dụng hết số ma túy “ke” vừa mua được. Sau khi sử dụng xong, T và L quay lại nhà anh H1 cùng H1 vàC đi xuống thành phố H chơi. Trên đường đi L đưa 01 túi ma túy “đá” còn lại cho T cất giữ. Đến 21 giờ 20 phút cùng ngày, cả nhóm đến cổng chung cư Newlife thuộc Tổ 4, Khu 5B, phường C, thành phố H thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang Lê Quốc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của T 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0986.745.804.

Ngày 14/12/2018, Công an tỉnh Quảng Ninh bắt khẩn cấp Đỗ Văn L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của L 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0966.728.886, 01 dây chuyền kim loại màu vàng trắng, 01 nhẫn kim loại màu vàng mặt đính đá màu đỏ và 105.800.000 đồng. (Một trăm linh năm triệu tám trăm nghìn đồng)

Tại bản Kết luận giám định số 16/GĐMT ngày 16/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng có trong01 túi nilon thu giữ của Lê Quốc T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,71 gam.

Quá trình điều tra, bị cáo Lê Quốc T và Đỗ Văn L thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như trên. Ngoài ra, các bị cáo khai thêm: Các bị cáo không nói với anh H1 và anh C về việc đi mua ma túy nên bị cáo không rõ anh H1 và anh C có biết hay không. Người giới thiệu mua ma túy cho L là anh Trần Minh Hà (anh của H1), bị cáo L không biết địa chỉ chính xác của đối tượng tên Hoàng mà chỉ liên lạc mua bán ma túy với Hoàng qua số điện thoại 0936.029.066.

Số ma túy thu giữ của T hoàn lại sau giám định 0,65 gam Methamphetamine và số vật chứng, tài sản thu giữ của T và L Cơ quan điều tra hiện đang bảo quản chờ xử lý theo quy định.

Cáo trạng số 94/CT-VKSHL ngày 28/03/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố các bị cáo Lê Quốc T và Đỗ Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c,khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Lê Quốc T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tính từ ngày bắt 13/12/2018.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Đỗ Văn L từ 12 tháng đến 15tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tính từ ngày bắt 14/12/2018.

- Áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,65 gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại động hiệu Iphone có số thuê bao 0966.728.886 thu giữ của bị cáo Đỗ Văn L và trả lại bị cáo Lê Quốc T 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0986.745.804.

Trong quá trình điều tra và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, các bị cáo Lê Quốc T và Đỗ Xuân L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, cùng công nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Lời nói sau cùng: các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng anh Nguyễn Văn C, Trần Minh H1, Nguyễn Tiến D có lời khai thể hiện về thời gian, địa điểm xảy ra sự việc và vật chứng thu giữ được phù hợp với lời khai nhận của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, phù hợp với các quy định của Bộ luật tố tụng hìnhsự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, qua khai nhận của các bị cáo, đồng thời căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa đã đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 13 tháng 12 năm 2018 tại cổng chung cư Newlife thuộc Tổ 4, Khu 5B phường Bãi Cháy thành phố H, Lê Quốc T và Đỗ Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 0,71 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo Lê Quốc T và Đỗ Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) …

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện tội phạm:

Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an địa phương. Ma túy là chất gây nghiện độc hại, không nhữngảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế và hạnh phúc gia đình của người nghiện, mà còn là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và gây mất trật tự xã hội. Vì vậy, pháp luật nhà nước ta nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ ... trái phép chất ma tuý và quy định mức hình phạt rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm này.

Cả hai bị cáo đều là người đã trưởng thành, có đủ khả năng nhận thức được tác hại của ma tuý và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. NH1 do ý thức chấp hành pháp luật kém, lối sống buông thả, ăn chơi đua đòi, các bị cáo đã sa ngã vào con đường phạm tội.Để thỏa mãn nhu cầu bản thân, các bị cáo đã cùng nhau lên kế hoạch góp tiền cùng mua ma túy để sử dụng, trong đó người trực tiếp thực hiện việc mua ma túy là bị cáo L. Sau khi sử dụng hết số ma túy ketamine vừa mua được còn lại 0,71 gam Methamphetamine các bị cáo tiếp tục cất giữ để tìm kiếm cơ hội sử dụng tiếp nH1 chưa kịp sử dụng thì đã bị bắt quả tang. Hành vi phạm tội của các bị cáo không những thể hiện rõ thái độ coi thường pháp luật mà còn tiếp tay cho những kẻ khác mua bán trái phép chất ma tuý, do vậy cần phải được xử lý nghiêm bằng biện pháp cách ly xã hội một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa chung.

[4]Xét vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Đỗ Văn L là người trực tiếp liên hệ và mua ma túy còn bị cáo Lê Quốc T là người tích cực bàn bạc cùng góp tiền mua ma túy để sử dụng và là người trực tiếp cất giấu ma túy nên các bị cáo có vai trò ngang nhau.

[5]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Nhưng dù có giảm nhẹ đến đâu, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục mình cho tốt và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[6]Vật chứng vụ án:

Đối với 01 dây chuyền kim loại màu vàng trắng, 01 nhẫn kim loại màu vàng mặt đính đá màu đỏ và 105.800.000 đồng (Một trăm linh năm triệu tám trăm nghìn đồng) thu giữ của L không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo nên không đề cập xử lý;

Số ma túy hoàn lại sau giám định hoàn lại 0,65 gam Methamphetamine là vật nhà nước cấm, nên đề nghị tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0966.728.886, bị cáo L sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0986.745.804thu giữ của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

[7]Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi các bị cáo mua 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) ma túy ketamine không rõ khối lượng, các bị cáo đã sử dụng hết nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với đối tượng Hà và H1 theo lời khai của L là người giới thiệu và đưa L đi mua ma túy. Quá trình điều tra, xác minh các đối tượng trên vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với đối tượng Hoàng bán ma túy cho L, Cơ quan điều tra đã gửi công văn tra cứu thông tin số điện thoại của Hoàng, khi nào có kết quả sẽ tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với việc C đi cùng bị cáo L và T mua ma túy nhưng C không biết rõ việc mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy của L và T nên không cấu thành tội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào: điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Quốc T và Đỗ Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

- Bị cáo Lê Quốc T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 13/12/2018.

- Bị cáo Đỗ Văn L 12(mười hai) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt 14/12/2018.

 Áp d ụng : điểm a , khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135, 136, 331 và Điều 333Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 0,65 gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại động hiệu Iphone có số thuê bao 0966.728.886 thu giữ của bị cáo Đỗ Văn L và trả lại bị cáo Lê Quốc T 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone có số thuê bao 0986.745.804. ( Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 146/BB-THA ngày 04 /5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H).

 Áp dụng: khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Quốc T và bị cáo Đỗ Văn L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, có mặt các bị cáo. Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:175/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về