Bản án 176/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 176/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 378/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2018 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 191/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 138/2018/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tiến G, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn Đ, xã T1, huyện T, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

- Bị đơn: Chị Trần Thị Mai N, sinh năm 1981; Địa chỉ: Thôn Đ, xã T1, huyện T, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 24 tháng 5 năm 2018 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên và tại phiên tòa, anh Nguyễn Tiến G (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trung Hà, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 30 ngày 09 tháng 9 năm 2005. Quá trình chung sống đến đầu năm 2016 vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã, xích mích với nhau. Mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc, trầm trọng. Nên đến cuối năm 2017 anh G và chị N sống ly thân tới nay. Khi mâu thuẫn xảy ra, gia đình và bạn bè đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Cho nên tháng 10/2017 anh G đã gửi đơn khởi kiện vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng nhưng mong muốn vợ chồng có thêm thời gian, cơ hội hàn gắn tình cảm nên anh G đã rút đơn xin ly hôn. Đến nay anh G nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trở lên trầm trọng, sâu sắc, tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trần Thị Mai N.

Về con chung: Anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N có 02 con chung tên Nguyễn Phú T1 sinh ngày 04 tháng 11 năm 2006 và Nguyễn Bảo P sinh ngày 20 tháng 5 năm 2012. Hiện nay chị N đang nuôi hai con và con đều đang khỏe mạnh. Điều kiện nuôi con của anh và chị N đều tốt và đảm bảo được việc nuôi con. Do mong muốn các con không tách rời nhau đỡ thiệt thòi về tình cảm sau khi cha mẹ ly hôn nên khi ly hôn anh đề nghị được nuôi hai con chung, nếu không được thì anh xin nuôi một con và con nào cũng được. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh đề nghị để anh và chị N tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh G trình bày anh và chị N có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Trong bản tự khai đề ngày 21/6/2018 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên và tại phiên tòa, chị Trần Thị Mai N (bị đơn) trình bày:

Chị N thừa nhận toàn bộ lời trình bày của anh G là đúng. Ngoài ra mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 6/2016 do anh G không chung thủy trong tình cảm. Chị N xác định mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn nên anh G xin ly hôn thì chị đồng ý ly hôn. Do chị không muốn các con tách rời nhau để đỡ thiệt thòi về tình cảm sau khi cha mẹ ly hôn và con có nguyện vọng ở với chị nên khi ly hôn chị xin nhận nuôi cả hai con, cấp dưỡng nuôi con để tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Chị N trình bày vợ chồng có tài sản chung, chị mong muốn tự thỏa thuận với nhau xong thì mới giải quyết ly hôn và không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng trong vụ án này.

Anh Nguyễn Tiến G đã nộp cho Tòa án: Giấy kết hôn số 30 ngày 09 tháng 9 năm 2005; Bản sao: Giấy khai sinh của 02 con chung; Chứng minh nhân dân; Sổ hộ khẩu và tập bản phô tô tin nhắn giữa vợ chồng; Tại phiên tòa anh G nộp bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty TNHH Đầu tư Thương mại xây dựng T2; Thông báo nộp thuế của Doanh nghiệp do anh làm quản lý; Giấy chứng nhận nhà ở để chứng minh cho yêu cầu của mình. Chị N giao nộp cho Tòa án tập bản phô tô tin nhắn giữa vợ chồng và không có ý kiến gì đối với các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ vụ án.

Tại các biên bản xác minh ngày 30/7/2018 và 08/8/2018 thể hiện quá trình kết hôn, chung sống, quá trình mâu thuẫn và tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, sâu sắc không thể hàn gắn tình cảm, hôn nhân không còn hạnh phúc, vợ chồng không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được. Về con chung anh chị có hai con chung hiện đang khỏe mạnh và phát triển bình thường, điều kiện nuôi con của cả hai bên đều tốt và như nhau.

Trong vụ án này: Lời trình bày của anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà anh chị giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được nên đó là sự thật và thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản, công nợ chung phát sinh từ quan hệ hôn nhân, anh G chị N trình bày có tài sản chung và không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hộiđồng xét xử nghị án; Đề nghị áp dụng Điều 28, Điều 92, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải quyết cho anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N được ly hôn. Về con chung: Anh G và chị N có 02 con chung tên Nguyễn Phú T1 sinh ngày 04 tháng 11 năm 2006 và Nguyễn Bảo P sinh ngày 20 tháng 5 năm 2012, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình xử giao nuôi con chung sau khi ly hôn phù hợp điều kiện cụ thể của cha mẹ và nguyện vọng của con. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh G và chị N trình bày để tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về tài sản chung: Anh G và chị N trình bày có tài sản chung và không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Anh Nguyễn Tiến G phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Anh G và chị N được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, đã đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

 [2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa Anh Nguyễn Tiến G và c hị Trần Thị Mai N được xác lập vào năm 2005 là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra bất đồng, hôn nhân giữa các bên đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn sâu sắc đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ vợ chồng không còn nên anh Nguyễn Tiến G xin ly hôn với chị Trần Thị Mai N và chị N đồng ý ly hôn. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Tiến G với chị Trần Thị Mai N.

 [3] Về con chung: Anh Nguyễn Tiến G và Chị Trần Thị Mai N có 02 con chung tên Nguyễn Phú T1 sinh ngày 04 tháng 11 năm 2006 và Nguyễn Bảo P sinh ngày 20 tháng 5 năm 2012. Khi ly hôn anh G, chị N đều có nguyện vọng nhận nuôi hai con chung. Quá trình điều tra xác minh anh G và chị N có điều kiện kinh tế, nơi cư trú ổn định, có đủ khả năng và thời gian để chăm sóc các con chung ngang nhau, con chung Nguyễn Phú T1 có nguyện vọng được ở với chị N nên cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Nguyễn Bảo P cho anh G trực tiếp nuôi và con chung Nguyễn Phú T1 chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận, không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [4] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N trình bày có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Tiến G phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Nguyễn Phú T1 sinh ngày 04 tháng 11 năm 2006 cho chị Trần Thị Mai N trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung Nguyễn Bảo P sinh ngày 20 tháng 5 năm 2012 cho anh Nguyễn Tiến G trực tiếp nuôi dưỡng.

Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Tiến G và chị Trần Thị Mai N có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Tiến G phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0009054 ngày 04 tháng 6 năm 2018; Anh Nguyễn Tiến G đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Tiến G, chị Trần Thị Mai N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có Phươngyêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 176/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:176/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về