Bản án 18/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

 TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 13/03/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Khắc T (tên thường gọi là Tỷ); Sinh ngày: 19/01/1973; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Không xác định; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mã Văn V (chết) và bà: Lữ M (chết); Có vợ: là Nguyễn Quý N và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 17/9/2017.

Nhân thân: - Ngày 02/3/1990, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 tháng tù về tội « Cướp giật tài sản của công dân » và 03 tháng tù về tội « Cưỡng đoạt tài sản của công dân » (Bản án số: 16/STHS).

- Ngày 23/4/1991, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản của công dân » (Bản án số: 31/STHS).

- Ngày 07/8/1992, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội « Cướp giật tài sản của công dân » (Bản án số: 491/HSST).

- Ngày 06/4/1995, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội « Cố ý gây thương tích » (Bản án số: 373).

- Ngày 14/9/2000, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội « Trộm cắp tài sản của công dân » (Bản án số: 2410/HSST). (có mặt)

2. Nguyễn Quý N; Sinh ngày: 09/8/1990; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 147 lô B, cư xá TĐ, Phường BG, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: A26/24 khu phố 1, tổ BG, ấp A, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không rõ và bà: Nguyễn Thị Thanh P; Có chồng: là Huỳnh Khắc T và con: Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại.

Nhân thân: Ngày 25/11/2010, bị Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy » (Bản án số: 239/2010/HSST). (có mặt)

- Bị hại:

Bà Đặng Kim Q; Sinh năm: 1989 và bà Đặng Ngọc Huyền Th; Sinh năm: 1994; Cùng thường trú: 326 ấp MĐ, xã LHT, huyện CĐ, tỉnh Long An; Chỗ ở: Phòng trọ số 17, nhà số 43/7 đường LCH, Phường J, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (đều có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Nguyễn Thị Kim H; Sinh năm: 1972; Trú tại: 84 đường CT, phường H T, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 25 phút ngày 13/9/2017, bà Đặng Kim Q và bà Đặng Ngọc Huyền Th đến Công an Phường 10, Quận 6 trình báo việc bị mất tài sản gồm: 01 vòng ximen bằng vàng 18K có trọng lượng khoảng 01 chỉ, 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K có trọng lượng khoảng 02 chỉ, 01 chiếc lắc cong bong bằng vàng 18K có trọng lượng 01 chỉ 18 phân, 01 con tỳ hưu bằng vàng 18 có trọng lượng 01 chỉ, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi), 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen, 04 chai nước hoa, một số tiền ngoại tệ và số tiền 42.000.000 đồng tại phòng trọ số 17, nhà số 43/7 đường LCH, Phường J, Quận F.

Qua truy xét, ngày 16/9/2017, Công an Phường 10, Quận 6 triệu tập Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N (là người thuê phòng trọ số 49, nhà số 43/7 đường LCH, Phường J, Quận F) lên trụ sở Công an Phường 10, Quận 6 làm việc. Qua đấu tranh, T và N đều khai nhận: Do không có tiền tiêu xài, nên T nảy sinh ý định đột nhập vào phòng trọ số 17, nhà số 43/7 đường LCH, Phường J, Quận F tìm tài sản lấy trộm. Để thực hiện ý định, T kêu N dùng cái mền có kích thước 2,2 mét x 1,7 mét che ngang cửa phòng trọ số 17 và phòng số 49 (hai phòng đối diện nhau) nhằm tránh Camera quan sát. Sau đó, T dùng búa đập bung ổ khóa phòng số 17 và khi thấy T đột nhập được vào trong phòng số 17, N xếp mền lại rồi vào phòng số 49 chờ. Về phần T, khi vào trong phòng số 17 lục tìm tài sản đã lấy trộm được 42.000.000 đồng, 01 vòng ximen bằng vàng 18K, 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K, 01 chiếc lắc cong bong bằng vàng 18K, 01 con tỳ hưu bằng vàng 18, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi), 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen, 04 chai nước hoa và một số tiền ngoại tệ liền kêu N dùng cái mền che ngang phòng số 17 và phòng số 49 để T quay về phòng 49. Sau đó, T đưa tiền kêu N trả tiền phòng, còn T thuê xe ba gác dọn đồ đến thuê phòng trọ tại số 208/7/3 đường LHP, Phường O, Quận H ở. Đến chiều ngày 15/9/2017, T và N đem 02 chiếc nhẫn vàng, 01 chiếc lắc vàng, 01 vòng ximen, 01 con tỳ hưu đến tiệm vàng Kim Kim H (số 130 đường PCĐ, Phường F, Quận K) bán cho bà Nguyễn Thị Kim H lấy 6.995.000 đồng tiêu xài. Đến ngày 16/9/2017, cả hai bị Công an Phường 10, Quận 6 bắt giữ như nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 38.650.000 đồng, 07 tờ tiền có mệnh giá 02 USD, 05 tờ tiền có mệnh giá 01 USD, 01 tờ tiền có mệnh giá 05 USD, 01 tờ tiền có mệnh giá 01 nhân dân tệ, 02 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 10 đô la, 01 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 02 đô la, 01 tờ tiền của Canada có mệnh giá 05 đô la, 01 tờ tiền Campuchia có mệnh giá 100 đồng, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi), 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen có chữ V-805, 04 chai nước hoa (hiệu Dhalia divin givenchy hình vuông, hiệu Guess hình thoi, hiệu Valentine hình tròn, hiệu Vecsare hình chữ nhật), 01 cây búa bằng kim loại sơn màu đỏ, 01 cái mền vải bằng chăn lông màu đỏ trắng.

Tại Văn bản số: 2214/TCKH ngày 22 tháng 12 năm 2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6 thống nhất giá như sau:

- 01 vòng ximen bằng vàng 18K có trọng lượng khoảng 01 chỉ, có giá trị là 2.040.000 đồng.

- 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K có trọng lượng khoảng 02 chỉ, có giá trị là 2.450.000 đồng.

- 01 chiếc lắc cong bong bằng vàng 18K có trọng lượng 01 chỉ 18 phân, có giá trị là 2.400.000 đồng.

- 01 con tỳ hưu bằng vàng 18 có trọng lượng 01 chỉ, có giá trị là 2.040.000 đồng. đồng.

- 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi), có giá trị là 70.000

- 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen, trước mặt có chữ V-805, có giá trị là 70.000 đồng.

- 07 tờ tiền đô Mỹ có mệnh giá 02 USD, có giá trị là 320.600 đồng.

- 05 tờ tiền đô Mỹ có mệnh giá 01 USD, có giá trị là 115.000 đồng.

- 01 tờ tiền đô Mỹ có mệnh giá 05 USD, có giá trị là 114.600 đồng.

- 01 tờ tiền của Trung Quốc có mệnh giá 01 nhân dân tệ, có giá trị là 3.400 đồng.

- 02 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 10 đô la, có giá trị là 672.800 đồng.

- 01 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 02 đô la, có giá trị là 33.400 đồng.

- 01 tờ tiền của Canada có mệnh giá 05 đô la, có giá trị là 91.000 đồng.

- 01 tờ tiền Campuchia có mệnh giá 100 đồng, có giá trị là 564 đồng.

- 01 chai nước hoa hiệu Dhalia divin givenchy, hình vuông, vỏ chai thủy tinh, nắp bằng nhựa trắng, nước hoa màu vàng đậm (không cung cấp được dung tích), loại nước hoa Hội đồng không tìm thấy thông tin giá trị tang vật.

- 01 chai nước hoa Guess, hình thoi, vỏ chai thủy tinh, nắp bằng nhựa trắng kim loại màu trắng, nước hoa màu tím (không cung cấp được dung tích), loại nước hoa Hội đồng không tìm thấy thông tin giá trị tang vật.

- 01 chai nước hoa hiệu Valentine, hình tròn, vỏ chai thủy tinh, nắp bằng nhựa trắng kim loại màu trắng, nước hoa màu vàng nhạt (không cung cấp được dung tích), loại nước hoa Hội đồng không tìm thấy thông tin giá trị tang vật.

- 01 chai nước hoa hiệu Vecsare, hình chữ nhật, vỏ chai thủy tinh, nắp bằng nhựa trắng kim loại màu trắng, nước hoa màu xanh biển (không cung cấp được dung tích), loại nước hoa Hội đồng không tìm thấy thông tin giá trị tang vật.

Đối với bà Nguyễn Thị Kim H, là người có hành vi mua số nữ trang từ Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N, nhưng không biết rõ đó là tài sản do phạm tội mà có, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại Cáo trạng số: 12/CT-VKS-Q6 ngày 26 tháng 01 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N về tội « Trộm cắp tài sản » theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N đều khai nhận chính các bị cáo đã thực hiện hành vi đột nhập vào phòng trọ số 17, nhà số 43/7 đường LCH, Phường J, Quận F lấy trộm số tiền 42.000.000 đồng, 01 vòng ximen bằng vàng 18K, 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K, 01 chiếc lắc bằng vàng 18K, 01 con tỳ hưu bằng vàng 18K, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng, 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen, 04 chai nước hoa và một số tiền ngoại tệ vào khoảng 15 giờ ngày 13/9/2017 như bản cáo trạng nêu;

Bị hại Đặng Kim Q, Đặng Ngọc Huyền Th xác nhận Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại các bà số tiền 38.650.000 đồng, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi), 01 đồng hồ đeo tay, 07 tờ tiền có mệnh giá 02 USD, 05 tờ tiền có mệnh giá 01 USD, 01 tờ tiền có mệnh giá 05 USD, 01 tờ tiền có mệnh giá 01 nhân dân tệ, 02 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 10 đô la, 01 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 02 đô la, 01 tờ tiền của Canada có mệnh giá 05 đô la, 01 tờ tiền Campuchia có mệnh giá 100 đồng và 04 chai nước hoa. Còn các tài sản bị thiệt hại gồm: 01 vòng ximen bằng vàng 18K, 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K, 01 chiếc lắc bằng vàng 18K, 01 con tỳ hưu bằng vàng 18K và số tiền 3.350.000 đồng, do thấy hoàn cảnh của các bị cáo quá khó khăn, bản thân bị cáo N đang nuôi 03 con nhỏ, nên bà Q, bà Th không yêu cầu bồi thường.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Huỳnh Khắc T từ 03 năm đến 04 năm tù về tội « Trộm cắp tài sản » theo điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Nguyễn Quý N từ 02 năm đến 03 năm tù về tội « Trộm cắp tài sản » theo điểm c khoản 2 Điều 173; điểm n, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với các bị cáo, do các bị cáo không có khả năng thi hành.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Đặng Kim Q và Đặng Ngọc Huyền Th không yêu cầu, nên không đề nghị giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 cái mền vải chăn long màu đỏ trắng (có nhiều bông đỏ, nhụy trắng) kích thước 2,2m x 1,7m và 01 cây búa cán bằng gỗ màu trắng, kích thước 31cm, phần đầu lớn rộng 4,5cm, phần đầu nhỏ rộng 4cm, đầu búa bằng kim loại sơn màu đỏ dài 11cm, rộng 3,7cm.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N nhận thức được hành vi của các bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và đều xin Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất để các bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của các bị cáo Huỳnh Khắc Tr, Nguyễn Quý N, của bị hại Đặng Kim Q, Đặng Ngọc Huyền Th tại phiên tòa là phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N đã phạm tội « Trộm cắp tài sản ». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N với ý định phạm tội có từ trước, đã lén lút đột nhập vào phòng trọ số 17, nhà số 43/7 đường LCH, Phường J, Quận F lấy trộm của bà Đặng Kim Q và bà Đặng Ngọc Huyền Th 01 vòng ximen bằng vàng 18K có trọng lượng khoảng 01 chỉ trị giá 2.040.000 đồng, 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K có trọng lượng khoảng 02 chỉ trị giá 2.450.000 đồng, 01 chiếc lắc cong bong bằng vàng 18K có trọng lượng 01 chỉ 18 phân trị giá 2.400.000 đồng, 01 con tỳ hưu bằng vàng 18 có trọng lượng 01 chỉ trị giá 2.040.000 đồng, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi) trị giá 70.000 đồng, 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen (trước mặt có chữ V-805) trị giá 70.000 đồng, 07 tờ tiền đô la Mỹ có mệnh giá 02 USD có tỷ giá ngoại tệ tương đương 320.600 đồng, 05 tờ tiền đô la Mỹ có mệnh giá 01 USD có tỷ giá ngoại tệ tương đương 115.000 đồng, 01 tờ tiền đô la Mỹ có mệnh giá 05 USD có tỷ giá ngoại tệ tương đương 114.600 đồng, 01 tờ tiền của Trung Quốc có mệnh giá 01 nhân dân tệ có tỷ giá ngoại tệ tương đương 3.400 đồng, 02 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 10 đô la có tỷ giá ngoại tệ tương đương 672.800 đồng, 01 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 02 đô la có tỷ giá ngoại tệ tương đương 33.400 đồng, 01 tờ tiền của Canada có mệnh giá 05 đô la có tỷ giá ngoại tệ tương đương 91.000 đồng, 01 tờ tiền Campuchia có mệnh giá 100 đồng có tỷ giá ngoại tệ tương đương 564 đồng và số tiền 42.000.000 đồng (tổng giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 52.421.364 đồng), là phạm tội: « Trộm cắp tài sản » thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N là hết sức liều lĩnh, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân.

Các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng đều do tham lam, lười lao động mà lại muốn có tiền để tiêu xài và nhất là xem thường pháp luật, nên các bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên.

Đây là vụ án có đồng phạm, với bị cáo Huỳnh Khắc T là người rủ rê, xúi giục và trực tiếp dùng búa đập bung ổ khóa cửa phòng số 17 để đột nhập vào nhà chiếm đoạt tài sản. Còn bị cáo Nguyễn Quý N là đồng phạm giữ vai trò giúp sức tích cực cho bị cáo Huỳnh Khắc T thực hiện hành vi phạm tội. Tuy các bị cáo có thống nhất cùng nhau thực hiện tội phạm, nhưng không có sự câu kết chặt chẽ, nên tính tổ chức ở đây chỉ là giản đơn.

[3] Bản thân các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N đều có nhân thân xấu, đó là ngày 02/3/1990, bị cáo Huỳnh Khắc T bị Tòa án nhân dân Quận 6 xử phạt 03 tháng tù về tội « Cướp giật tài sản của công dân » và 03 tháng tù về tội « Cưỡng đoạt tài sản của công dân »; ngày 23/4/1991, bị Tòa án nhân dân Quận 6 xử phạt 12 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản của công dân »; ngày 07/8/1992, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội « Cướp giật tài sản của công dân »; ngày 06/4/1995, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội « Cố ý gây thương tích »; ngày 14/9/2000, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội « Trộm cắp tài sản của công dân ». Còn bị cáo Nguyễn Quý N ngày 25/11/2010, bị Tòa án nhân dân Quận 12 xử phạt 02 năm tù về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy ». Mặc dù lần phạm tội này các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, các bị cáo, nhất là bị cáo Huỳnh Khắc T vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N là nghiêm trọng, do đó Hội đồng xét xử thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương đối dài mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét các bị cáo đều có thái độ thành khẩn nhận tội. Riêng bị cáo Nguyễn Quý N còn thể hiện sự ăn năn hối cải và phạm tội khi đang mang thai, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại điểm n, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Xét các bị cáo đều không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Việc bồi thường thiệt hại: Cơ quan điều tra đã thu hồi các tài sản gồm: 38.650.000 đồng, 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu trắng (đồ xi), 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu đen (trước mặt có chữ V-805), 07 tờ tiền có mệnh giá 02 USD, 05 tờ tiền có mệnh giá 01 USD, 01 tờ tiền có mệnh giá 05 USD, 01 tờ tiền có mệnh giá 01 nhân dân tệ, 02 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 10 đô la, 01 tờ tiền của Singapgo có mệnh giá 02 đô la, 01 tờ tiền của Canada có mệnh giá 05 đô la, 01 tờ tiền Campuchia có mệnh giá 100 đồng, 04 chai nước hoa (hiệu Dhalia divin givenchy hình vuông, hiệu Guess hình thoi, hiệu Valentine hình tròn, hiệu Vecsare hình chữ nhật) trả lại bà Đặng Kim Q và bà Đặng Ngọc Huyền Th (theo Biên bản về việc trả lại tài sản ngày 22/12/2017 của Công an Quận 6 - BL116). Còn số tiền 3.350.000 đồng và 01 vòng ximen bằng vàng 18K, 02 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng 18K, 01 chiếc lắc bằng vàng 18K, 01 con tỳ hưu bằng vàng 18K mà các bị cáo đem bán không thu hồi được. Tại phiên tòa, bà Quyên, bà Thoại không yêu cầu bồi thường, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Việc xử lý vật chứng: Công cụ dùng vào việc phạm tội là 01 cái mền vải chăn long màu đỏ trắng (có nhiều bông đỏ, nhụy trắng) kích thước 2,2m x 1,7m và 01 cây búa cán bằng gỗ màu trắng, kích thước 31cm, phần đầu lớn rộng 4,5cm, phần đầu nhỏ rộng 4cm, đầu búa bằng kim loại sơn màu đỏ dài 11cm, rộng 3,7cm, là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 11/PNK ngày 12 tháng 01 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL140).

Đối với bà Nguyễn Thị Kim H, Viện kiểm sát xác định bà H không biết rõ số nữ trang mà bà mua từ các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N là tài sản do phạm tội mà có, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Khắc T (Tỷ), Nguyễn Quý N phạm tội: « Trộm cắp tài sản ».

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Khắc T (Tỷ) 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2017.

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm n, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quý N 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) cái mền vải chăn long màu đỏ trắng (có nhiều bông đỏ, nhụy trắng) kích thước 2,2m x 1,7m và 01 (một) cây búa cán bằng gỗ màu trắng, kích thước 31cm, phần đầu lớn rộng 4,5cm, phần đầu nhỏ rộng 4cm, đầu búa bằng kim loại sơn màu đỏ dài 11cm, rộng 3,7cm.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Các bị cáo Huỳnh Khắc T, Nguyễn Quý N; bị hại Đặng Kim Q, Đặng Ngọc Huyền Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về