Bản án 18/2019/DS-PT ngày 04/03/2019 về tranh chấp thừa kế tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 18/2019/DS-PT NGÀY 04/03/2019 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 04/2019/TLPT-DS ngày 07 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp về thừa kế tài sản.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2018/DS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 18/2019/QĐ-PT ngày 15 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lý Thị D; cư trú tại: Số nhà X, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị đơn:

1. Ông Lý Thanh L; cư trú tại: Số nhà Y, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

2. Ông Lý Văn P; cư trú tại: Ngõ Z đường T, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

3. Ông Lý Văn Ph; cư trú tại: Số nhà W, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lý Thị E; cư trú tại: Số nhà A, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

2. Bà Hoàng Yến N; cư trú tại: số nhà Y, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

3. Ông Hà Văn M; cư trú tại: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

4. Bà Đặng Mai H; cư trú tại: Khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

5. Bà Phạm Thị X; cư trú tại: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

6. Ông Vũ Đức T; cư trú tại: Số nhà B, khu N, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

7. Bà Hà Thị C; cư trú tại: số C, khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

8. Chị Nguyễn Thị T; cư trú tại: số D, khu L, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

9. Ông Siu Khoắn L; cư trú tại: Số E, khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Lý Thị D; các bị đơn ông Lý Văn Ph, ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm và tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cụ Lý Ký C và cụ Hà Thị K sinh được 04 người con là bà Lý Thị D; ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P và ông Lý Văn Ph. Năm 1990 bà Hà Thị K chết, năm 1999 ông Lý Ký C chết; khi chết cả hai đều không để lại di chúc. Ngày 07 tháng 02 năm 2017, bà Lý Thị D khởi kiện ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P và ông Lý Văn Ph yêu cầu chia di sản thừa kế do cụ Lý Ký C và cụ Hà Thị K bao gồm:

- 1.158,3m2 đất thuộc một phần thửa đất số 5, 6,156 cùng tờ bản đồ số 18-d, bản đồ địa chính thị trấn Đ; địa danh Khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; được ký hiệu là S1, S2, S3, S4, S7 trên mảnh trích đo địa chính số 134-2018 ngày 11 tháng 10 năm 2018 do Công ty cổ phần Tư vấn T1 Lạng Sơn đo vẽ; trên phần diện tích ký hiệu S2 có 01 ngôi nhà cấp 4 do ông Lý Thanh L đang quản lý sử dụng.

- Đất rừng, đất ao, ruộng khe tại khu L, thuộc xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; trên đất có 1.117 cây hồi.

Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà Lý Thị D yêu cầu Tòa án chia di sản của cụ Lý Ký C và cụ Hà Thị K thành 04 phần bằng nhau, ai được hưởng phần di sản có giá trị lớn hơn thì phải bù chênh lệch cho người kia bằng tiền. Cụ thể, bà Lý Thị D yêu cầu được chia diện tích đất ký hiệu S1= 264,1m2 thuộc thửa đất số 156 và diện tích đất có ký hiệu S4= 95,2m2 thuộc thửa đất số 06, cùng tờ bản đồ số 18-d, bản đồ địa chính thị trấn Đ; địa danh V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.

Bị đơn là ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P, ông Lý Văn Ph không thừa nhận đất rừng tại L, xã B, huyện C là tài sản của ông Lý Ký C mà là do các bị đơn cùng bố là ông Lý Ký C khai phá từ năm 1994 đến năm 1996, hiện đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lý Thanh L và bà Hoàng Yến N; khu rừng đó không có ruộng như bà Lý Thị D trình bày mà chỉ có khe dọc theo hai bên đồi, không trồng lúa nước bao giờ. Đối với đất ở tại khu vực V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, ngoài diện tích đất mà bà Lý Thị D đã trình bày ở trên, còn có 184,7m2 đất thuộc một phần diện tích thửa đất 06, tờ bản đồ 18-d bản đồ địa chính thị trấn Đ, được ký hiệu là S5, S6 trên mảnh trích đo số 134-2018 cũng là tài sản của ông Lý Ký C và bà Hà Thị K (chính là phần đất mà Bà Lý Thị E và Lý Thị C đã xây nhà).

Các bị đơn đều không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D vì năm 1989 bà Lý Thị D đã được bố mẹ chia cho 140m2 đất ở và 04 sào đất ruộng tại khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nên những tài sản còn lại hiện nay thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của cả 03 anh em là Lý Thanh L, Lý Văn P và Lý Văn Ph.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Lý Thị E trình bày: Bà là em ruột của ông Lý Ký C. Năm 1992, bà và bà Lý Thị C được mẹ đẻ là cụ Lộc Thị S chia cho mỗi người một mảnh đất chính là phần ký hiệu S6, S7 thể hiện trên mảnh trích đo địa chính số 134-2018. Năm 2005, gia đình bà và bà Lý Thị C đã xây dựng nhà và quản lý sử dụng từ đất từ năm 1992 đến nay. Bà Lý Thị C không xây dựng gia đình, sau khi bà Lý Thị C chết, anh Lý Văn Ph là người quản lý, sử dụng nhà đất của bà Lý Thị C.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Yến N nhất trí với ý kiến trình bày của các bị đơn và không có ý kiến trình bày bổ sung.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm bà Hà Thị Ch, ông Phùng Văn N, ông Phạm Thanh D, bà Lợi Thị Q, ông Vũ Đức B, ông Vũ Đức T, bà Phạm Thị X, đều khai nhận được mua đất với ông Lý Kỷ Ch và không liên quan đến vợ chồng bà Lý Thị D.

Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lần 01 vào ngày 19 tháng 9 năm 2017. Do không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm số 07/2017/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn nên các bị đơn đã kháng cáo. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 03/2018/DS-PT ngày 10 tháng 01 năm 2018, Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã hủy Bản án dân sự sơ thẩm nói trên.

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lần 02. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2018/DS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã căn cứ vào Điều 618; Điều 623; Điều 649; Điều 650; điểm a khoản 1 Điều 651; Điều 658 và khoản 2 Điều 660 của Bộ luật Dân sự; căn cứ khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 2 Điều 147; khoản 2 Điều 157; khoản 2 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D.

1.1 Chia cho bà Lý Thị D được hưởng di sản thừa kế quyền sử dụng diện tích 95,2m2 đất vườn (ký hiệu S4) có trị giá 199.920.000đ (một trăm chín mươi chín triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng), thuộc một phần thửa đất số 6, tờ bản đồ địa chính thị trấn Đ, huyện C; địa danh: Khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.

1.2 Ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P, ông Lý Văn Ph được hưởng di sản thừa kế quyền sử dụng đất chung 1.063,1m2 đất vườn (ký hiệu S1, S2, S3, S7) có trị giá 2.232.510.000đ (hai tỷ hai trăm ba mươi hai triệu năm trăm mười nghìn đồng), tại các thửa đất số 5, số 6, số 156 thuộc tờ bản đồ địa chính thị trấn Đ huyện C; địa danh: Khu V, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn và 01 nhà cấp 4; các công trình phụ trên diện tích đất có ký hiệu S2 trị giá 98.534.000đ (chín mươi tám triệu năm trăm ba mươi tư nghìn đồng). Tạm giao toàn bộ diện tích 1.063,1m2 đất vườn và 01 nhà cấp 4, công trình phụ trên diện tích đất cho ông Lý Thanh L quản lý.

1.3 Ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P, ông Lý Văn Ph có trách nhiệm liên đới thanh toán tiền chênh lệch trị giá tài sản được hưởng cho bà Lý Thị D là 274.635.000đ (hai trăm bảy mươi tư triệu sáu trăm ba mươi lăm nghìn đồng). Cụ thể mỗi người phải thanh toán cho bà Lý Thị D là 91.545.000đ (chín mươi mốt triệu năm trăm bốn mươi năm nghìn đồng).

2. Tách phần yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D đối với yêu cầu chia tài sản thừa kế của ông Lý Ký C và bà Hà Thị K đối với rừng hồi và ruộng tại khu L, thôn N, xã B, huyện C để giải quyết bằng vụ án khác.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ chậm trả, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Trong hạn luật định, bà Lý Thị D có đơn kháng, yêu cầu được quyền quản lý, sử dụng 264.1m2 đất là phần đất có ký hiệu S1 và 95.2m2 đất là phần đất có ký hiệu S4; yêu cầu chia đất rừng L, thôn N, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thành 04 kỷ phần bằng nhau, bà Lý Thị D yêu cầu được chia bằng tiền; buộc các bị đơn phải thanh toán tiền chênh lệch cho bà.

Ông Lý Văn Ph, ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P cùng có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D; giao quyền quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích 1.158,3m2 đất đang tranh chấp cho ông Lý Văn Ph, ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P; không đồng ý thanh toán chênh lệch bằng tiền bà Lý Thị D.

Tại Quyết định kháng nghị số 03/QĐKNPT-VKS-DS ngày 28 tháng 12 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đề nghị hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2018/DS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm vì bản án dân sự sơ thẩm chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự, xác định thiếu người tham gia tố tụng, hội thẩm nhân dân thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng và xác định nghĩa vụ chịu án phí không đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Theo đơn khởi kiện bổ sung và quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà Lý Thị D yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất lâm nghiệp và cây trồng trên đất, đất ao, ruộng khe, địa danh L, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nhưng Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc không giải quyết mà tách yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D về việc chia thừa kế đối với rừng hồi và ruộng tại khu L để giải quyết bằng một vụ án khác là chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn có một số vi pháp khác đó là: Xác định thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và Hội thẩm nhân dân thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi khi tiến hành tố tụng. Vì vậy, đề nghị cấp phúc thẩm hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2018/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

Các ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P, ông Lý Văn Ph và bà Hoàng Yến N: Không đồng ý chia di sản thừa kế cho bà Lý Thị D; đề nghị cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm theo nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát.

Ông Hà Đức T là chồng Bà Lý Thị E cho biết: Ngày 27 tháng 12 năm 2018, Bà Lý Thị E chết nên ông đến tham gia phiên tòa theo giấy ủy quyền của Bà Lý Thị E lập ngày 23 tháng 11 năm 2018. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; nguyên đơn, bị đơn thực hiện đủ các quyền, nghĩa vụ của mình.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, nguyên đơn và các bị đơn kháng cáo nên được coi là kháng cáo hợp lệ.

Xét yêu cầu kháng cáo của các đương sự: Bà Lý Thị D yêu cầu chia thừa kế của ông Lý Ký C và bà Hà Thị K là phù hợp với quy định tại Điều 650 của Bộ luật Dân sự nên các bị đơn kháng cáo không đồng ý chia di sản thừa kế và bù chênh lệch bằng tiền cho bà Lý Thị D là không phù hợp pháp luật. Mặc dù bà Lý Thị D không được chia 264,1m2 đất ký hiệu S1 trên mảnh trích đo nhưng cấp sơ thẩm đã buộc các bị đơn có nghĩa vụ thanh toán phần chênh lệch giá trị di sản cho bà nên đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lý Thị D. Đối với kháng cáo của bà Lý Thị D về việc được chia di sản thừa kế là đất lâm nghiệp, đất ao, ruộng khe, địa danh L, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập làm rõ phần di sản của ông Lý Ký C tại địa danh L để chia thừa kế mà tách phần yêu cầu này của nguyên đơn để giải quyết bằng vụ án khác là chưa giải quyết hết yêu cầu của đương sự và đây cũng là một trong những nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát.

Về nội dung kháng nghị: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung kháng nghị và Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm 09/2018/DS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Giấy ủy quyền lập ngày 23 tháng 11 năm 2018 của Bà Lý Thị E có trong hồ sơ và do ông Hà Đức T cung cấp tại phiên tòa thể hiện bà Lý Thị E chỉ ủy quyền cho ông Hà Đức T tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm ngày 28 tháng 11 năm 2018. Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm ông Hà Đức T chưa cung cấp giấy chứng tử của Bà Lý Thị E, chưa thực hiện thủ tục của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Hà Thị E nhưng xét thấy quyết định của Bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình Bà Lý Thị E và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt khác. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Bà Lý Thị E.

[2] Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lần 01 vào ngày 19 tháng 9 năm 2017. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2017/DSST ngày 19 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, ông Vũ Hải Quân là Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử. Do bản án bị cấp phúc thẩm hủy nên ngày 28 tháng 11 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm lần 02. Tại phiên tòa sơ thẩm lần 02, Hội thẩm nhân dân là ông Vũ Hải Quân tiếp tục tham gia Hội đồng xét xử. Việc Hội thẩm nhân dân Vũ Hải Quân tham gia xét xử sơ thẩm lần 02 đối với vụ án này là vi phạm khoản 3 Điều 53 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Ngày 18 tháng 7 năm 2018, bà Lý Thị D có đơn khởi kiện bổ sung và đã được Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn thụ lý bổ sung đối với yêu cầu chia di sản thừa kế đối với phần diện tích đất lâm nghiệp và cây trồng trên đất, đất nông nghiệp ở L, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình giải quyết vụ án, bà Lý Thị D đã giao nộp cho Tòa án sổ lâm bạ có tên ông Lý Ký C và có đơn yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ về nguồn gốc đất rừng này (BL 458a) nhưng Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ liên quan đến đất rừng và tài sản trên đất mà nhận định: Chưa đủ căn cứ để xác định khu đất rừng và ruộng ở L là di sản thừa kế của ông Lý Ký C và bà Hà Thị K; mặt khác tại mục 2 của Bản án đã quyết định: Tách yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D đối với yêu cầu chia tài sản thừa kế của ông Lý Ký C và bà Hà Thị K đối với rừng hồi và ruộng tại khu L để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác. Việc Hội đồng xét xử tách yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị D về chia thừa kế đối với rừng hồi và ruộng tại khu L để giải quyết bằng một vụ án khác là chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[4] Bản án sơ thẩm xác định di sản thừa kế là 1.158,3m2 đất thuộc một phần diện tích đất tại các thửa 05, 06, 156 tờ bản đồ 18-d bản đồ địa chính thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Tại mục 1 phần quyết định của Bản án sơ thẩm đã quyết định: Chia cho bà Lý Thị D được hưởng di sản thừa kế quyền sử dụng đất diện tích 95,2m2 đất vườn thuộc một phần thửa đất số 6; chia cho ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P, ông Lý Văn Ph được hưởng di sản thừa kế quyền sử dụng đất chung 1.063,1m2 đất vườn tại thửa đất số 5, số 6, số 156 tờ bản đồ địa chính thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có vị trí kích thước, mốc giới theo mảnh trích đo địa chính số 124-2018. Việc tuyên như vậy là chưa cụ thể, chưa chính xác. Mặt khác, đối chiếu mảnh trích đo địa chính số 134-2018 do Công ty cổ phần T1 Lạng Sơn đo vẽ ngày 11 tháng 10 năm 2018 thể hiện (kèm theo bản án): Diện tích đất được ký hiệu S2, S3, S6, S7 trên mảnh trích đo có một phần diện tích đất của các thửa đất số 7, 17, 64 tờ bản đồ số 18-d (bút lục 377, 502) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu làm rõ người quản lý sử dụng các thửa đất này để đưa họ vào tham gia tố tụng là xác định thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ sử dụng đất nêu trên.

[5] Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, xét thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn là có căn cứ. Những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm là rất nghiêm trọng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Vì vậy, cần hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2018/DS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; chuyển hồ sơ để Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn thụ lý, giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

[6] Do Bản án sơ thẩm bị hủy nên không xem xét đến kháng cáo của các đương sự về nội dung của vụ án. Các vấn đề về thu thập, đánh giá chứng cứ để xác định di sản thừa kế, nghĩa vụ chịu án phí và chi phí tố tụng cấp sơ thẩm cần thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[7] Về án phí phúc thẩm: Vì Bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy nên các đương sự kháng cáo là bà Lý Thị D, ông Lý Thanh L, ông Lý Văn Ph, ông Lý Văn P không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; hoàn trả các đương sự số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310; khoản 3 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2018/DS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lý Thị D, ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P và ông Lý Văn Ph không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả bà Lý Thị D 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn theo Biên lai thu số AA/2012/05203 ngày 11 tháng 12 năm 2018; hoàn trả ông Lý Thanh L, ông Lý Văn P và ông Lý Văn Ph mỗi người 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn, theo Biên lai thu số AA/2012/05212; AA/2012/05213; AA/2012/05214 cùng ngày 18 tháng 12 năm 2018.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/DS-PT ngày 04/03/2019 về tranh chấp thừa kế tài sản

Số hiệu:18/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về