Bản án 18/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 01/04/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 01 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2019 đối với:

Trần Mạnh T, sinh ngày 23 tháng 01 năm 1981; nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Số 8, đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn N (đã chết) được Nhà nước tặng T Huy chương chiến sỹ vẻ vang và con bà Hoàng Thị T, sinh năm 1949; vợ Bùi Thu H, sinh năm 1983; con: Có 02 ngươi con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đã chấp hành xong bản án; ngày 28/9/2009, Công an tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01129 về hành vi buôn bán vận chuyển hàng hóa Trung Quốc nhập lậu, phạt 5.000.000đ, chấp hành xong ngày 29/9/2009; ngày 02/01/2013, Công an thành phố Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 00253/QĐ-XPVPHC về hành vi vận chuyển sản phẩm động vật nhập lậu, phạt 7.500.000 đồng, chấp hành xong ngày 03/01/2013; ngày 20/5/2013, Công an thành phố Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0106/QĐ-XPHC về hành vi buôn bán vận chuyển sản phẩm động vật nhập lậu, phạt 10.000.000đ, chấp hành xong ngày 21/5/2013; ngày 10/4/2014, Công an thành phố Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 00012/QĐ- XPHC về hành vi vận chuyển sản phẩm động vật không có giấy kiểm dịch của cơ quan thú y, phạt 4.000.000đ, chấp hành xong ngày 10/4/2014 nên bị cáo có nhân thân không tốt; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2018 đến ngày 13/12/2018 thay thế bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Bùi Thu H, sinh năm 1983. Địa chỉ: Số 8, đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Bùi Xuân H, sinh năm 1976. Đia chỉ: Số 3, phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

2. Ông Đỗ Phi H, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số 2, tổ C, khối A, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

3. Ông Đào Gia L, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 03 phút ngày 09/10/2018, tại Km 04+500 tỉnh lộ 42 thuộc địa phận thôn Nhị Hà, xã Sơn Hà, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, Công an huyện Hữu Lũng phát hiện xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI biển kiểm soát 98H-4619 do Trần Mạnh T điều khiển có dấu hiệu nghi vấn vận chuyển hàng cấm, khi ra tín hiệu dừng xe thì lái xe không chấp hành mà điều khiển xe bỏ chạy. Khoảng 08 giờ 25 phút cùng ngày, tại đường liên thôn Đồng Lai, xã Đồng Tân, huyện Hữu Lũng, Công an huyện Hữu Lũng phát hiện chiếc xe có đặc điểm tương tự nhưng mang biển kiểm soát 20K-3844 nên đã dừng phương tiện, kiểm tra và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ gồm:

01 xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI mang biển kiểm soát 20K-3844, số khung VN100045; trên sàn xe phía trước ghế lái: 01 gói nhỏ kích thước 3 cm x 1,5 cm, vỏ gói bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đ, bên trong đựng chất bột màu trắng; sau ghế lái và ghế phụ xe không có ghế ngồi, trên sàn xe có: 18 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (14x14,5x15) cm, bên ngoài bọc giấy màu xanh có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám; 18 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (14x14,5x15) cm, bên ngoài bọc giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám; 04 bao tải tơ dứa đựng pháo, cụ thể: Bao thứ nhất: Bên ngoài là 01 bao tải tơ dứa màu xanh, bên trong có 02 thùng cattong, 01 thùng đựng 18 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (14 x 14,5 x 15) cm, bên ngoài bọc giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu đỏ, đáy bọc giấy màu xám; 01 thùng đựng 18 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (14 x 14,5 x 15) cm, bên ngoài bọc giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám; bao thứ hai: Bên ngoài là 02 bao tải tơ dứa màu xanh, bên trong có 02 thùng cattong, 01 thùng đựng 06 hộp pháo dàn loại 100 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (24x24x15) cm, bên ngoài bọc giấy màu xanh có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám; 01 thùng đựng 06 hộp pháo dàn loại 100 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (24 x 24 x 15) cm, bên ngoài bọc giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám; bao thứ ba: Bên ngoài là 02 bao tải tơ dứa màu xanh, bên trong có 02 thùng cattong, mỗi thùng đựng 06 hộp pháo dàn loại 100 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (24 x 24 x 15) cm, bên ngoài bọc giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám; bao thứ tư: Bên ngoài là 02 bao tải tơ dứa màu xanh, bên trong có 02 thùng cattong, mỗi thùng đựng 18 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp, mỗi hộp có kích thước (14 x 14,5 x 15) cm, bên ngoài bọc giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, đầu bọc giấy nilon màu vàng, đáy bọc giấy màu xám. Toàn bộ số pháo trên gồm 108 hộp pháo dàn loại 36 quả/hộp và 24 hộp pháo dàn loại 100 quả/hộp, có tổng trọng lượng là 246 kg. Và các tài sản đồ vật khác gồm: 01 vỏ bao tải tơ dứa màu xanh; 01 túi nilon màu đen đã rách; sát cửa sau của xe có 02 vỏ thùng cattong; 02 biển kiểm soát số 98H-4619 và 12K-1781; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A6+, màu đen, đã cũ, số IMEI 1: 356472095741436, IMEI 2: 356473095741434, gắn sim số 0972580141 do Trần Mạnh T tự nguyện giao nộp.

Quá trình điều tra và làm rõ tại phiên tòa Trần Mạnh T khai nhận: Tối ngày 08/10/2018, Trần Mạnh T đang ở nhà thì người đàn ông tên H ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang gọi điện thoại vào số 0972580141 của T để thuê chở pháo về tỉnh Bắc Giang với giá 3.500.000đ, T đồng ý và hẹn hôm sau sẽ đón Huy tại khu vực quán ăn đêm sau Bưu điện tỉnh Lạng Sơn. Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 09/10/2018, Trần Mạnh T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI biển kiểm soát 12K-1781 đến chỗ hẹn để đón Huy rồi theo chỉ dẫn của Huy đi đến khu vực Hang Dơi thuộc địa phận huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Đến nơi, T dừng xe, Huy xuống xe mở cửa xe ô tô để hai người đàn ông lạ mặt mang 04 bao tải tơ dứa bên trong chứa các thùng cattong đựng pháo xếp lên sàn xe sau ghế phụ và bóc 01 bao tải tơ dứa lấy các hộp pháo để xung quanh các bao pháo. Xếp pháo xong, H lên ghế phụ ngồi cạnh T rồi cùng T vận chuyển pháo quay lại thành phố Lạng Sơn thì T thay biển số 98H-4169 cho xe rồi tiếp tục điều khiển xe ô tô về Bắc Giang theo đường Quốc lộ 1A. Khi đến khu vực Đền Quan Giám sát thuộc địa phận xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng, thấy cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ nên T điều khiển xe ô tô rẽ vào đường đi Đền Công đồng Bắc Lệ thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, ra đến cầu Na Hoa thuộc xã Hồ Sơn thì lại gặp cảnh sát giao thông, T điều khiển xe bỏ chạy ra Quốc lộ 1A hướng thành phố Lạng Sơn, rẽ vào đường Nhà máy xi măng X78 thuộc thôn Đồng Lai, xã Đồng Tân. Tại đây, Trần Mạnh T dừng xe và thay biển số 20K-3844 cho xe, cùng lúc đó, người đàn ông tên Huy xuống xe đi bộ ra trước. Đợi không thấy Huy quay lại, khoảng 08 giờ 25 phút cùng ngày, khi Trần Mạnh T đang điều khiển xe ô tô đi ra đến gần Quốc lộ 1A thì bị Công an huyện Hữu Lũng kiểm tra xe, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Ngày 10/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 194 đối với toàn bộ số pháo thu giữ của T; Quyết định trưng cầu giám định số 195, 196 đối với 01 gói nhỏ kích thước 3 cm x 1,5 cm, vỏ gói bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, bên trong đựng chất bột màu trắng.

Tại Bản kết luận giám định số 23/KL-PC09 ngày 12/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Các mẫu vật gửi giám định đều có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây ra tiếng nổ.

Tại Bản kết luận giám định số 348/KL-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,098 gam (đã trừ bì).

Tại Bản kết luận giám định số 215/KL-KLGĐ-PC09 ngày 19/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận tờ tiền 1.000đ gửi giám định là tiền thật.

Ngày 24/10/2018, vợ của Trần Mạnh T là Bùi Thu H, sinh năm 1983, trú tại Số 8, đường N, phường T, thành phố L giao nộp 01 đăng ký xe ô tô số 001971 mang tên Bùi Xuân H do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 12/10/2010; 01 giấy chứng minh nhân dân số 080982328 mang tên Trần Mạnh T do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 12/10/2011; 01 giấy bán xe giữa ông Đỗ Phi H và ông Trần Mạnh T, Bùi Thu H ngày 20/5/2017.

Ti cơ quan điều tra, Trần Mạnh T khai nhận 01 gói bằng tờ tiền mệnh giá 1.000đ, bên trong đựng ma túy Heroine là ma túy T mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ, làm nghề xe ôm ở thành phố Lạng Sơn, mục đích sử dụng cho bản thân. Khối lượng ma túy Heroine đã trừ bì thu giữ là 0,098 gam, không cấu thành tội phạm để xử lý hình sự. Ngày 28/01/2019, Công an huyện Hữu Lũng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPVPHC đối với Trần Mạnh T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đi với hành vi sử dụng biển kiểm soát giả số 98H-4619 và 20K-3844 của Trần Mạnh T là vi phạm Điều 8 Luật giao thông đường bộ, ngày 04/02/2019 Công an huyện Hữu Lũng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0006833/QĐ-XPVPHC đối với Trần Mạnh T về hành vi sử dụng biển số giả.

Đi với người đàn ông tên Huy, Trần Mạnh T khai không biết địa chỉ và họ tên đầy đủ của H, chỉ biết H ở thị trấn B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, H sử dụng số điện thoại 0855241656 để liên lạc với T để thuê T vận chuyển pháo nổ về Bắc Giang, H đi cùng xe ô tô để chỉ đường, chỉ thỏa thuận tiền công chở là 3.500.000đ, sau khi về đến điểm nhận pháo thì mới trả tiền.

Ngày 09/11/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã ra Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm số 03, 04 xác định thông tin chủ thuê bao, chi tiết cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, tin nhắn đi, tin nhắn đến của số thuê bao 0855241656 và 0972580141 đến Viễn thông Lạng Sơn thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội (Viettel). Ngày 06/12/2018, Viễn thông Lạng Sơn cung cấp thông tin cuộc gọi, tin nhắn của số thuê bao 0855241656, chủ thuê bao là Đào Gia L, sinh năm 1972, trú tại xã Đ, huyện Gi, tỉnh B. Quá trình điều tra đã tiến hành lấy lời khai của Đào Gia L nhưng Lục không thừa nhận sử dụng số thuê bao trên. Ngày 28/01/2019, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội (Viettel) cung cấp thông tin cuộc gọi, tin nhắn của số thuê bao 0972580141, chủ thuê bao là Trần Mạnh T. Ngày 29/01/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã tiến hành nhận dạng người đàn ông tên H thuê Trần Mạnh T chở pháo, trong ảnh nhận dạng có ảnh của người đàn ông tên Đào Gia L, tên chủ thuê bao số điện thoại mà T khai là của H. Trần Mạnh T xác định trong các ảnh nhận dạng không có H. Do vậy, không có cơ sở để xác định và xử lý hình sự đối với người tên H.

Quá trình điều tra, Trần Mạnh T còn khai nhận: Trước ngày bị bắt khoảng 03 đến 05 ngày, T có được H thuê vận chuyển pháo từ thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến cạnh đường ở khu vực thị trấn B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang và nhận 3.500.000đ. Do không xác định được khối lượng pháo và người đàn ông tên H, ngoài lời khai của Trần Mạnh T thì không có tài liệu khác chứng minh nên không có cơ sở để xử lý đối với T.

Tại phiên tòa: Bị n hàng cấm và khẳng định bị cáo bị truy tố, xét xử về tội “Vận chuyển hàng cấm” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Tại bản cáo trạng số: 17/CT-VKSHL-HS ngày 01/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, truy tố bị cáo Trần Mạnh Tcáo Trần Mạnh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra về hành vi vận chuyể về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh T phạm tội vận chuyển hàng cấm.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 3, Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Mạnh T từ 05 đến 06 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.000đ (một nghìn đồng) được niêm phong trong 01 phong bì; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A6+, màu đen gắn sim số 0972580141 của bị cáo T.

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 10 thùng catton; 03 túi nilon màu đen; 08 bao tải tơ dứa màu xanh; 01 phong bì niêm phong dán kín, bên trong là ma túy Heroine hoàn trả sau giám định và 02 biển kiểm soát giả số 98H-4619, 20K-3844.

- Trả lại cho bị cáo Trần Mạnh T 01 giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Mạnh T; trả cho chị Bùi Thu H 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI biển kiểm soát 12K1781, số khung VN100045 và 01 giấy đăng ký xe ô tô số 001971 mang tên Bùi Xuân H cấp ngày 12/10/2010.

Xác nhận cơ quan điều tra đã tiêu hủy toàn bộ số pháo bị thu giữ theo quy định.

Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiện tranh luận gì, đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhất trí với bản cáo trạng và bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo là xin HĐXX xem xét giảm nhẹ phần hình phạt cho bị cáo được hưởng án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa hôm nay lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo Trần Mạnh T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai tại cơ quan điều tra, lơi khai cua ngươi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Mạnh T phạm tội vận chuyển hàng cấm với hành vi cụ thể như sau:

[2] Khoảng 08 giờ 25 phút ngày 09/10/2018, Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang Trần Mạnh T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI mang biển kiểm soát giả 20K-3844 vận chuyển 246 kg pháo nổ. Trần Mạnh T khai nhận toàn bộ số pháo trên do một người đàn ông tên H thuê T vận chuyển từ khu vực Hang Dơi, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tỉnh Bắc Giang. Số pháo thu giữ của Trần Mạnh T được giám định, kết luận có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây tiếng nổ.

[3] Tại bản cáo trạng số: 17/CT-VKSHL-HS ngày 01/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần Mạnh T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được tác hại của pháo nổ đối với bản thân và toàn xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi vận chuyển hàng cấm là vi phạm pháp luật nhưng do muốn có tiền tiêu sài cho bản thân, coi thường pháp luật nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội vận chuyển hàng cấm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý một số hàng hóa của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa làm gương cho những người khác có ý định hành vi tương tự.

[5] Xét về nhân thân: Bị cáo Trần Mạnh T đã bị kết án về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đã chấp hành xong bản án và năm 2009, 2013, 2014 bị Công an tỉnh Lạng Sơn và Công an thành phố Lạng Sơn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “buôn bán vận chuyển hàng hóa Trung Quốc nhập lậu, vận chuyển sản phẩm động vật nhập lậu và không có giấy kiểm dịch, bị cáo đã chấp hành xong các quyết định xử phạt. Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân rồi tiếp tục cố ý phạm tội. Do vậy, bị cáo là người có nhân thân không tốt.

[6] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố là ông Trần Văn N được tặng T Huy chương chiến sỹ vẻ vang và ngày 01/4/2019 bị cáo đã khắc phục, chấp hành xong hai quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng biển số xe giả và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng số tiền là 6.500.000đ, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Từ những phân tích trên khi lượng hình cũng cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung, nhưng cũng xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ phần nào về hình phạt đối với bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật đối với những người biết ăn năn hối cải.

[9] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị cáo Trần Mạnh T đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh từ ngày 13/12/2018 đến nay, tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích xã hội và để đảm bảo thi hành hình phạt đối với bị cáo nên cần áp dụng biện pháp ngăn chặn là bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa để đảm bảo thi hành án.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, qua xác minh và làm rõ tại phiên tòa bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị, không có thu nhập ổn định. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[11] Về vật chứng của vụ án:

[12] Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền và tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo: Số tiền 1.000đ (một nghìn đồng) bị cáo dùng để gói ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A6+, màu đen gắn sim số 0972580141 của bị cáo T liên lạc vận chuyển pháo thuê.

[13] Tịch thu tiêu hủy tài sản và đồ vật liên quan đến việc phạm tội không có giá trị sử dụng gồm: 10 thùng catton; 03 túi nilon màu đen; 08 bao tải tơ dứa màu xanh; 01 phong bì niêm phong dán kín, bên trong là ma túy Heroine hoàn trả sau giám định và 02 biển kiểm soát giả số 98H-4619, 20K-3844.

[14] Trả lại tài sản đồ vật không liên quan đến việc phạm tội gồm: cho bị cáo Trần Mạnh T 01 giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Mạnh T; trả cho chị Bùi Thu H 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI biển kiểm soát 12K1781, số khung VN100045 và 01 giấy đăng ký xe ô tô số 001971 mang tên Bùi Xuân H cấp ngày 12/10/2010.

[15] Xác nhận cơ quan điều tra đã tiêu hủy toàn bộ số pháo bị thu giữ theo quy định.

[16] Về án phí: Bị cáo Trần Mạnh T bị kết án phạm tội vận chuyển hàng cấm nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước theo quy định.

[17] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh T phạm tội vận chuyển hàng cấm.

2. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Mạnh T 05 (năm) năm tù, được trừ đi thời gian đã tạm giữ, tạm giam 02 (hai) tháng 06 (sáu) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng 24 (hai mươi tư) ngày, thời gian chấp hành tính từ ngày 01/4/2019. Bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.000đ (một nghìn đồng) được niêm phong trong một phong bì; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A6+, màu đen gắn sim số 0972580141 của bị cáo T.

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 10 thùng catton; 03 túi nilon màu đen; 08 bao tải tơ dứa màu xanh; 01 phong bì niêm phong dán kín, bên trong là ma túy Heroine hoàn trả sau giám định và 02 biển kiểm soát giả số 98H-4619, 20K-3844.

- Trả lại cho bị cáo Trần Mạnh T 01 giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Mạnh T; trả cho chị Bùi Thu H 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI biển kiểm soát 12K1781, số khung VN100045 và 01 giấy đăng ký xe ô tô số 001971 mang tên Bùi Xuân H cấp ngày 12/10/2010.

Xác nhận cơ quan điều tra đã tiêu hủy toàn bộ số pháo bị thu giữ theo quy định.

(Các vật chứng trên hiện được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/03/2019)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Mạnh T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

503
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về