Bản án 18/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04 tháng 4 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Phùng Văn T, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1972 tại Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn 10, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hoá (học vấn) 07/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn P và bà Đỗ Thị B; vợ Nguyễn Thị V; bị cáo có 03 con; tiền án: không, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn Q (tên gọi khác: H), sinh năm 1960. Nơi cư trú: Thôn 10, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị V và anh Trần Thế L, đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do trước đó giữa hai gia đình Phùng Văn T và Nguyễn Văn Q có mâu thuẩn nên khoảng 19 giờ ngày 19-9-2018, Phùng Văn T không tìm thấy vợ là Nguyễn Thị V ở đâu, T nghi ngờ anh em nhà Nguyễn Văn Q đã bắt cóc vợ mình nên T cầm từ nhà 01 con dao rựa phát dài 54cm, cán gỗ dài 28cm, đường kính 3,5cm, lưỡi kim loại dài 26cm mang theo và điều khiển xe máy đến nhà ông Q để tìm vợ. Khi đến nhà ông Q, T chửi bới và nói “Vợ tao đâu, đưa vợ tao ra đây”, ông Q nói “Tôi không biết” thì T dùng tay trái cầm tay phải ông Q lôi đi. Ông Q giằng lại không chịu đi, lúc này tay phải T cầm dao và lưỡi dao đang đè lên cẳng tay phải của ông Q, T giật tay làm lưỡi dao trúng vào cẳng tay phải gây thương tích cho ông Q. Hậu quả, ông Q bị thương ở cẳng tay phải điều trị tại bệnh viện 2 Lâm Đồng từ ngày 19- 9-2018 đến ngày 24-9-2018 ra viện.

Tại kết luận giám định thương tích số 286/2018/TgT ngày 31 tháng 10 năm 2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Lâm Đồng kết luận: “Dấu hiệu chính qua giám định: vết thương cẳng tay phải dài 5cm; tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định Nguyễn Văn Q là 07%; tổn thương do vật sắc gây nên”;

Vật chứng thu giữ: 01 con dao dài 54cm, cán gỗ dài 28cm, đường kính 3.5cm, lưỡi kim loại hình cong dài 26cm.

Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại ông Nguyễn Văn Q yêu cầu bồi thường số tiền 46.500.000 đồng (trong đó tiền điều trị theo hóa đơn 1.618.500 đồng). Phùng Văn T đã bồi thường 5.000.000 đồng.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, bị cáo Phùng Văn T đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố, mẹ đẻ là người có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi xử lý.

Tại bản cáo trạng số 17/CTr-VKS ngày 22 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố bị cáo Phùng Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

- Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xét xử bị cáo Phùng Văn T từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

- Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tang vật tiêu hủy;

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại để chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của bị hại là 12.600.000 đồng, gồm: tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe là 1.600.000 đồng, tiền xe đi và về 500.000 đồng/lượt là 1.000.000 đồng, tiền thu nhập thực tế bị mất 05 ngày x 200.000 đồng là 1.000.000 đồng, thu nhập thực tế của người chăm sóc bị mất là 05 ngày x 200.000 đồng là 1.000.000 đồng, thu nhập thực tế bị giảm sút là 30 ngày x 100.000 đồng là 3.000.000 đồng, tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 5.000.000 đồng.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét để xét xử bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại về hành vi và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phùng Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Khoảng 19 giờ ngày 19 tháng 9 năm 2018 Phùng Văn T cầm con dao rựa phát có kích thước dài 54cm, lưỡi kim loại có hình cong mũi quắm dài 26cm, cán gỗ dài 28cm chém vào cẳng tay phải của ông Q gây ra tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 7%.

[3] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hại và lời khai của những người làm chứng phù hợp với các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ đã có đủ căn cứ xét xử bị cáo Phùng Văn T đúng như tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố. Đối với tội danh “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, vì tính hung hăng nên đã cố ý gây thương tích cho ông Nguyễn Văn Q tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 7%. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của công dân mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, làm cho nhân dân hoang mang và bất bình lên án. Do vậy, việc xét xử đối với bị cáo phải thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về nhân thân: Căn cứ vào trích lục tiền án, tiền sự của Phòng PV27 Công an tỉnh Lâm Đồng và lý lịch bị cáo thể hiện: Bị cáo không có tiền sự, tiền án.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phùng Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là con của người có công với cách mạng nên cần áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cũng đủ tác dụng đối với bị cáo, đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, căn cứ vào nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, mà cho bị cáo hưởng án treo, bị cáo thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú và gia đình để giám sát, giáo dục.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Văn Q yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 12.600.000 đồng. Trong đó: tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe là 1.600.000 đồng, tiền xe đi và về 500.000 đồng/lượt là 1.000.000 đồng, tiền thu nhập thực tế bị mất 05 ngày x 200.000 đồng là 1.000.000 đồng, thu nhập thực tế của người chăm sóc bị mất là 05 ngày x 200.000 đồng là 1.000.000 đồng, thu nhập thực tế bị giảm sút là 30 ngày x 100.000 đồng là 3.000.000 đồng, tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 5.000.000 đồng.

Ngoài ra, không yêu cầu bồi thường gì thêm. Tại phiên tòa bị cáo và bị hại đã tự nguyện thỏa thuận về số tiền bồi thường nêu trên. Xét các thỏa thuận trên là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, yêu cầu trên của bị hại là có căn cứ, phù hợp với Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và yêu cầu trên cũng được bị cáo đồng ý nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tm giữ số tiền 5.000.000 đồng bị cáo Phùng Văn T đã nộp (do Phùng Hải T nộp thay) theo biên lai số AA/2017/0002032 ngày 30-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh để thi hành án.

Về hình phạt bị hại đề nghị xét xử bị cáo nghiêm theo quy định của pháp luật, không cho bị cáo hưởng án treo.

[6] Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 con dao rựa phát có kích thước dài 54cm, lưỡi kim loại có hình cong mũi quắm dài 26cm, cán gỗ dài 28cm(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25-02-2019).

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 380.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phùng Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phùng Văn T 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, giao Phùng Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Hòa Bắc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Về bồi thường:

Áp dụng Điều 30 và Điều 42 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

Buộc bị cáo Phùng Văn T có nghĩa vụ bồi thường cho ông Nguyễn Văn Q (tên gọi khác: H) số tiền 12.600.000 đồng (Bằng chữ: Mười hai triệu sáu trăm ngàn đồng).

Tm giữ số tiền 5.000.000 đồng bị cáo Phùng Văn T đã nộp (do Phùng Hải T nộp thay) theo biên lai số AA/2017/0002032 ngày 30-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh để thi hành án.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu số tiền lãi theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 con dao rựa phát có kích thước dài 54cm, lưỡi kim loại có hình cong mũi quắm dài 26cm, cán gỗ dài 28cm(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25-02-2019).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 380.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về