Bản án 18/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Tạ Xuân T; Sinh ngày: 17/8/1992; Tại: Thành phố Hà Nội; Thường trú: 258 phố LT, phường VT, quận HBT, Thành phố Hà Nội; Tạm trú: 114/48/16 đường PVC, Phường I, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Tài xế xe tải; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tạ Xuân T1 và bà: Nguyễn Thị T (chết); Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 01/11/2018. (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 45 phút ngày 01/11/2018, Liên ngành Công an Quận 6 (Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Đội cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, Đội cảnh sát hình sự, Đội cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Công an Phường 11, Quận 6) kiểm tra hành chính quán Karaoke Vip 366 tại địa chỉ 366 đường Chợ Lớn, Phường 11, Quận 6 thì phát hiện tại phòng 402 có một số đối tượng gồm: Tạ Xuân T, Nguyễn Thị Thoại M, Trần Thị Thùy D, Nguyễn Thị Tuyết L, Phạm Minh T, Trương Huyền N, Nguyễn Thị T, Kim Dae W, Nguyễn Thị Lan T, Hà Huy M, Đinh Trọng P, Nguyễn Thế C, Trịnh Ngọc Đ, Đào Văn Q, Vũ Ngọc H, Nguyễn Văn D, Trương Văn Đ, Vũ Văn H, Trần Quốc V đang hát karaoke và thu giữ dưới khe ghế nệm tại chỗ ngồi của Tạ Xuân T 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng (T khai đó là ma túy khay). Ngoài ra, lực lượng liên ngành còn thu giữ tại phòng 402 một gói màu đỏ chứa: 01 viên nén hình tròn, 03 viên nén hình tam giác màu trắng xanh, 06 viên nén màu xanh dương, 02 viên nén màu xanh lá và 02 mảnh vụn viên nén màu xanh lá, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. Sau đó, đã giao các đối tượng trên cùng vật chứng bị thu giữ cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Tạ Xuân T khai: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 31/10/2018, T cùng Nguyễn Thị Thoại M (bạn gái T) đến quán Karaoke Vip 366 để đưa đồ cho anh rể tên Đinh Trọng P (nhân viên quản lý quán Karaoke). Đến nơi, T gặp bạn là Trần Thị Thùy D và được D mời lên phòng 402 hát karaoke. Về nguồn gốc bịch ma túy mà Công an thu giữ dưới khe ghế nệm tại chỗ ngồi của T là của T (không rõ lai lịch) cho T trước đó để đem đến quán Karaoke sử dụng. Riêng số ma túy thu giữ trong phòng 402 không phải của T và T không biết số ma túy này là của ai.

Đinh Trọng P, Nguyễn Thị Thoại M, Trần Thị Thùy D, Nguyễn Thị Tuyết L, Phạm Minh T, Trương Huyền N, Nguyễn Thị T, Kim Dae W, Nguyễn Thị Lan T, Hà Huy M, Đinh Trọng P, Nguyễn Thế C, Trịnh Ngọc Đ, Đào Văn Q, Vũ Ngọc H, Nguyễn Văn D, Trương Văn Đ, Vũ Văn H, Trần Quốc V đều khai không biết số ma túy mà Công an thu giữ tại phòng 402 quán Karaoke Vip 366 là của ai và những người này cũng xác nhận không biết việc T cất giữ ma túy trong người cũng như việc T giấu bịch ma túy dưới khe ghế nệm khi phát hiện thấy Công an vào kiểm tra.

Tại Kết luận giám định số: 1789/KLGĐ-H ngày 09 tháng 11 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:

- Gói 1: 01 viên nén hình tròn màu cam trong 01 gói màu đỏ được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Trương Đồng (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1865g (không phẩy một tám sáu năm gam), loại Nimetazepam.

- Gói 2: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Trương Đồng (người chứng kiến), Tạ Xuân T và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,2539g (ba phẩy hai năm ba chín gam), loại Ketamine.

- Gói 3: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Trương Đồng (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định, bên trong có:

+ 01 gói nylon chứa:

. 02 viên nén hình tam giác một mặt màu trắng, một mặt màu xanh lá và 01 mảnh vụn một mặt màu trắng, một mặt màu xanh lá có khối lượng 1,5766g (một phẩy năm bảy sáu sáu gam), không tìm thấy ma túy.

. 01 viên nén hình tròn màu xanh lá và 02 mảnh vụn màu xanh lá là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3879g (không phẩy ba tám bảy chín gam), loại MDMA.

. 01 mảnh vụn màu xanh dương là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1826g (không phẩy một tám hai sáu gam), loại MDMA.

+ Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2632g (một phẩy hai sáu ba hai gam), loại Ketamine.

- Gói 4: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Trương Đồng (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định, bên trong có 01 gói nylon chứa:

+ 03 viên nén hình tròn màu xanh dương và 02 mảnh vụn màu xanh dương là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3433g (một phẩy ba bốn ba ba gam), loại MDMA.

+ 01 viên nén màu xanh lá là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4007g (không phẩy bốn không không bảy gam), loại MDMA.

Đối với Nguyễn Thị Thoại M, Nguyễn Văn D, Đào Văn Qt, Trần Quốc V, Nguyễn Thị T, Vũ Ngọc H, Nguyễn Thị Tuyết L, Trần Thị Thùy D, Phạm Minh T, Trương Huyền N, Đinh Trọng P, Kim Dae W, tuy có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính.

Đối với Nguyễn Thị Lan T, Hà Huy M, Nguyễn Thế C, Trịnh Ngọc Đ, Trương Văn Đ, Vũ Văn H, không liên quan đến hành vi phạm tội của Tạ Xuân T, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Còn người đàn ông tên Thành đưa ma túy cho Tạ Xuân T, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 22/CT-VKS.Q6 ngày 19 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Tạ Xuân T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Tạ Xuân T khai khoảng 00 ngày 01/11/2018, sau khi được Thành (không rõ lai lịch) cho 01 bịch ma túy khay, bị cáo đem bịch ma túy này đến phòng 402 quán Karaoke Vip 366 tại địa chỉ 366 đường Chợ Lớn, Phường 11, Quận 6 để sử dụng, nhưng chưa kịp lấy ra sử dụng thì phát hiện có Công an, nên bị cáo lấy bịch ma túy giấu dưới khe ghế nệm tại chỗ ngồi của bị cáo nhằm phi tang, nhưng đã bị phát hiện thu giữ như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Tạ Xuân T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Tạ Xuân T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 2, vụ số: 1789/18 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương.

Trả lại bị cáo Tạ Xuân T 01 chiếc điện thoại di động (phía sau lưng có ghi chữ Iphone), vỏ màu đen, số IC: 579C-E3092A và 01 sim điện thoại số thuê bao 0932178092.

Còn 03 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 1, 3, 4, vụ số: 1789/18 Q6, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, không phải là vật chứng trong vụ án, nên đề nghị giao Công an Quận 6 để điều tra, làm rõ xử lý sau.

Lời nói sau cùng, bị cáo Tạ Xuân T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Tạ Xuân T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tạ Xuân T đã cất giữ 3,2539 gam ma túy ở thể rắn (loại Ketamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Tạ Xuân T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Tạ Xuân T hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Tạ Xuân T là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Ketamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác , do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án - tiền sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Tạ Xuân T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 2, vụ số: 1789/18 Q6, có chữ ký niêm phong lại của giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng chiếc điện thoại di động (phía sau lưng có ghi chữ Iphone), vỏ màu đen, số IC: 579C-E3092A (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0932178092) thu giữ của bị cáo Tạ Xuân T. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 03 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 1, 3, 4, vụ số: 1789/18 Q6, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương, Viện kiểm sát xác định không phải là vật chứng trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử giao lại Công an Quận 6 để điều tra, làm rõ và xử lý sau.

(theo hai Phiếu nhập kho vật chứng số: 201/PNK và số: 202/PNK cùng ngày 10 tháng 12 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL58, 100).

[6] Đối với Nguyễn Thị Thoại M, Nguyễn Văn D, Đào Văn Q, Trần Quốc V, Nguyễn Thị T, Vũ Ngọc H, Nguyễn Thị Tuyết L, Trần Thị Thùy D, Phạm Minh T, Trương Huyền N, Đinh Trọng P, Kim Dae W, tuy có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng Viện kiểm sát xác định chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với Nguyễn Thị Lan T, Hà Huy M, Nguyễn Thế C, Trịnh Ngọc Đ, Trương Văn Đ, Vũ Văn H, tuy ngày 01/11/2018 có đến phòng 402 quán Karaoke Vip 366, nhưng Cơ quan điều tra xác định những người này chỉ đến để hát Karaoke, không sử dụng ma túy và cũng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Tạ Xuân T, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với người đàn ông tên Thành mà bị cáo Tạ Xuân T khai là người cho bị cáo bịch ma túy, Cơ quan điều tra không xác định được, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Tạ Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Tạ Xuân T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Tạ Xuân T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/11/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 2, vụ số: 1789/18 Q6, có chữ ký niêm phong lại của giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Tạ Xuân T 01 (một) chiếc điện thoại di động (phía sau lưng có ghi chữ Iphone), vỏ màu đen, số IC: 579C-E3092A và 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0932178092.

Giao lại Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh 03 (ba) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi gói 1, 3, 4, vụ số: 1789/18 Q6, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Thành Phương để điều tra, làm rõ và xử lý sau, do đây không phải là vật chứng trong vụ án này.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Tạ Xuân T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Tạ Xuân T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về