Bản án 18/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 16/2019/HSST ngày 01 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang H, sinh năm 1983; giới tính: Nam; Nơi sinh: tại H; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; con ông Đồng Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; gia đình có 02 anh em, H là con thứ nhất, chưa có vợ; tiền án: Bản án số 38/2008/HSST ngày 05/03/2008, Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, thời hạn tù tính từ ngày 14/08/2007, đã thi hành xong án phí, người được thi hành án không có đơn yêu cầu thi hành án (đã xóa), tiền sự: không; Bị can bị tạm giữ từ ngày 27/9/2018 đến ngày 03/10/2018 chuyển tạm giam; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút ngày 27/09/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện T kết hợp với Công an thị trấn N làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố B, thị trấn N, huyện T, thành phố H đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Quang H có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đào Trọng Đ, sinh năm 1994 ở xã K, huyện T, thành phố H và Trần Văn T sinh năm 1991 ở xã T, huyện T, thành phố H. Thu giữ trên người của Đ 01 túi nylon trong chứa tinh thể màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Nokia, có sim số 0868842794, thu giữ của H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có sim số 01637559986, 01 chiếc xe đạp mini màu trắng, thu giữ tại mặt đường vị trí bắt giữ H số tiền 200.000 đồng. Tổ công tác đã đưa các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở Công an thị trấn N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang (bút lục số 16-19).

Tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Quang H thu giữ tại mặt bàn dưới gầm cầu thang 01 túi nylon trong chứa tinh thể màu trắng( bút lục số 25, 26).

Tại bản Kết luận giám định số 524/PC54( MT) ngày 29/09/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nylon thu giữ của Đào Trọng Đ, có khối lượng 0,0173gam, là loại Methamphetamine. Tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nylon thu giữ tại nơi ở của Nguyễn Quang H có khối lượng 0,0722 gam, loại Methamphetamine (bút lục số 36).

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quang H khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng tháng 08/2018 Hnảy sinh ý định mua ma túy đá để sử dụng cho bản thân và bán lại cho các người nghiện khác để kiếm lời. H thường mua của một người đàn ông không quen biết khu vực đường tàu nội thành H. Mỗi lần H mua 01 túi đá với giá 300.000 đồng, mang về nhà chia nhỏ được 04 túi, đóng gói bằng túi nylon màu trắng bên ngoài dính băng dính đen để chống ẩm. H bán với giá 200.000 đồng/gói. Cách thức H liên lạc bán ma túy với các đối tượng nghiện qua điện thoại, hai bên thỏa thuận số lượng, giá cả, hẹn địa điểm giao dịch cụ thể thì H mang đến điểm hẹn trao đổi. H đã bán ma túy nhiều lần cho nhiều người nhưng không nhớ cụ thể, chỉ nhớ đã bán 03 lần cho Đoàn Trọng Đ; Trần Văn T; Cao Văn H, sinh năm 1986, ở xã L, huyện T, thành phố H; Đỗ Văn T, sinh năm 1982, ở xã K, huyện T, thành phố H và Phạm Quang P, sinh năm 1976, ở xã H, huyện T, thành phố H cụ thể:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 25/09/2018, H bán cho Đ và Q 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng tại khu vực đường N, B, thị trấn N, huyện T, thành phố H.

- Lần thứ hai: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 26/09/2018, H bán cho Đ và T 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng tại nơi ở của H.

- Lần thư ba: Vào khoảng 14 giờ 15 phút ngày 27/09/2018, H bán cho Đ và T 01 túi ma túy đá với giá khoảng 200.000 đồng tại khu vực đường N, B, thị trấn N, huyện T, thành phố H thì bị công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng như nội dung trên.

Tại cơ quan điều tra, những người mua ma túy của H à Đoàn Trọng Đ, Trần Văn T, Cao Văn H, Đỗ Văn T, Phạm Văn Q khai như nội dung nêu trên. Đ, T, Q chung tiền mua ma túy sử dụng chung. Đ là người trực tiếp giao dịch với H mua ma túy, còn Q, T đi cùng Đ mỗi lần mua ma túy. H, T chung tiền mua ma túy sử dụng chung. H là người trực tiếp giao dịch với H mua ma túy, T đi cùng H mua ma túy( bút lục số 69-74, 85-88, 94-99, 124-131, 140-116).

Bản Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 31 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã truy tố Nguyễn Quang H về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo điểm b, c, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Quang H khai nhận và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Quang H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự và đề nghị, Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b,c, khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Quang H từ 08 đến 09 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng của vụ án, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong vỏ bao bì còn lại sau giám định; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Quang H; tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn Nokia màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen đã qua sử dụng và 01 chiếc xe đạp mini màu trắng; truy thu số tiền 400.000 đồng tiền Nguyễn Quang H bán ma túy mà có vào các ngày 25,26/9/2018. Bị cáo Nguyễn Quang H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về pháp luật áp dụng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội quy định kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng cho tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút, ngày 01 tháng 01 năm 2018.

[2]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3]. Lời khai của bị cáo Nguyễn Quang H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 25/9/2018 bị cáo Nguyễn Quang H đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đoàn Trọng Đ và Phạm Văn Q với giá 200.000 đồng và ngày 26/9/2018 Nguyễn Quang H bán ma túy cho Cao Văn H và Đỗ Văn T 01 túi ma túy với giá 200.000 đồng, tiếp đó vào khoảng 14 giờ 15 phút, ngày 27/9/2018 Nguyễn Quang H bán 01 trái phép chất ma túy cho Đoàn Trọng Đ, Trần Văn T thì bị phát hiện, bắt quả tang. Lượng ma túy công an thu giữ có khối lượng 0,0722 gam là loại Methamphetamine. Với hành vi trên, bị cáo Nguyễn Quang H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c, khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Bản cáo trạng số 17/CT-VKSTN ngày 31 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo như đã nêu trên là đúng pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống ma túy. Hiện nay ma túy đang là hiểm họa đối với con người, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và làm lây lan Đ dịch HIV/AIDS. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không có ý thức phòng tránh mà đã coi thường pháp luật thực hiện hành vi mua bán để kiếm lời. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5]. Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhân thân bị cáo, tính chất vụ án và quyết định hình phạt:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo có 01 tiền án đã được xóa điều đó thể hiện bị cáo có nhân thuân xấu, từ phân tích trên, cần thiết pHáp dụng hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo buộc bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Biên bản xác minh tài sản của cơ quan điều tra bị cáo không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Vậy xác định bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- 01 phong bì niêm phong vỏ bao bì còn lại sau giám định, bị cáo dùng vào việc phạm tội, là vật chứng của vụ án, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Quang H do bị cáo bán ma túy cho Đoàn Trọng Đ, Trần Văn T vào ngày 27/6/2019 nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Truy thu số tiền 400.000 đồng Nguyễn Quang H bán ma túy cho Đoàn Trọng Đ, Phạm Văn Q, Cao Văn H và Đỗ Văn T vào các ngày 25, 26/9/2018.

- 01 chiếc xe đạp mini màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn Nokia màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen đã qua sử dụng, đây là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

[8]. Trong vụ án này các đối tượng Đoàn Trọng Đ, Trần Văn T, Cao Văn H, Đỗ Văn T, Phạm Văn Q có hành vi ma ma túy của H để sử dụng cho bản thân, nhưng cơ quan công an không thu giữ được ma túy của H, T, Q và lượng ma túy thu của Đ, T không đủ để trúy cứu trách nhiệm hình sự nên đã xử lý hành chính đối với các đối tượng là đúng pháp luật.

[9]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang H phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b,c khoản 2, Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 89, Điều 106, Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý"; Phạt bị cáo Nguyễn Quang H 08 (Tám năm) tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 27/09/2018.

- Xử lý vật chứng, tuyên:

Tch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong vỏ bao bì còn lại sau giám định (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên).

Tch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng tại Biên lai thu tiền số 0000791, ngày 28 tháng 01 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

Tch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn Nokia màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen và 01 xe đạp min màu trắng đã qua sử dụng (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên).

Truy thu số tiền 400.000 đồng Nguyễn Quang H bán ma túy cho Đoàn Trọng Đ, Phạm Văn Q, Cao Văn H và Đỗ Văn T vào các ngày 25, 26/9/2018.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

- Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về