Bản án 18/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/HSST ngày 28 tháng  02  năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Văn M, tên gọi khác: không, sinh năm 1973 tại Thái Bình.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh T.

Chỗ ở: Không nơi ở nhất định.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Phụ xe.

Con ông Bùi Quang X (đã chết) và con bà Bùi Thị Lựu, sinh năm 1932 , có vợ Vũ Thị D(đã chết).

Bị cáo có 01 người con, sinh năm 2010. Hiện ở với mẹ của bị cáo tại Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh T.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2018 cho đến nay. Hiện nay đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

* Người bị hại: Ông Mai Xuân B, sinh năm 1950; Địa chỉ: Xã Long Hưng, huyện Phú Riêng, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt tại phiên tòa.

*  Người làm chứng: Chị Dương Thị N, sinh năm 1994; Địa chỉ: 33 Lý Nam Đế, phường Trà Bá, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vằng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào thời gian năm 2000, Bùi Văn M từ Thái Bình vào thành phố Pleiku thuê phòng trọ ở một số nơi trên địa bàn thành phố Pleiku để ở và đi làm nghề phụ xe tải cho các hãng xe. Khoảng 08 giờ ngày 14/12/2018, Bùi Văn M đến thuê phòng số 03 của nhà trọ Việt Tiến tại số 33 đường Lý Nam Đế, phường Trà Bá, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Một lúc sau, M chuyển sang thuê phòng số 05, còn phòng số 03 được ông Mai Xuân B (sinh năm 1950, trú tại xã Long Hưng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước) thuê. Khoảng 12 giờ cùng ngày, ông B đóng cửa phòng số 03 nhưng không bấm khóa, rồi đi ra ngoài ăn cơm. Sau khi chuyển phòng trọ, M phát hiện bị rơi mất điện thoại nhưng không xác định được rơi ở đâu, nên M nói chị Dương Thị N (sinh năm 1994, là nhân viên của nhà trọ) mở cửa phòng số 03 để M vào tìm điện thoại. Khi vào phòng, M không tìm thấy chiếc điện thoại bị mất mà thấy chiếc điện thoại Oppo F7 của anh B để dưới gối nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. M nói với chị Ngọc không tìm thấy điện thoại bị mất và đi về phòng của M. Sau khi về phòng, thấy chị Ngọc khép cửa phòng số 03 lại, rồi đi lên quầy lễ tân, M đã đi sang phòng số 03 lấy trộm chiếc điện thoại Oppo F7 của ông B. Sau đó, M mang đến cất giấu trong cabin của xe đầu kéo biển số 81C-031.55 tại Công ty Hoàng Mai ở số 650 đường Trường Chinh, phường Chi Lăng, thành phố Pleiku. Sau khi ăn cơm xong, ông B về phòng trọ thì phát hiện đã bị mất chiếc điện thoại nên ông B gặp chị Ngọc yêu cầu mở camera an ninh để kiểm tra thì phát hiện M là người đã lấy điện thoại và ông B làm đơn trình báo đến Công an phường Trà Bá, thành phố Pleiku. Công an phường Trà Bá đã triệu tập M đến làm việc thì M đã đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội và giao nộp chiếc điện thoại mà M đã trộm cắp của ông B.

Qua định giá, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Pleiku, đã kết luận: Chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F7 có giá trị theo giá thị trường là 3.500.000 đồng. Sau khi định giá xong, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đã trả lại chiếc điện thoại nêu trên cho bị hại Mai Xuân B. Hiện bị hại không yêu cầu bồi thường gì

Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 27/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Bùi Văn M về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Bùi Văn M từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù và bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 12 giờ 15 phút ngày 14/12/2018, tại phòng trọ số 03 của nhà trọ Việt Tiến địa chỉ: 33 đường Lý Nam Đế, phường Trà Bá, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, Bùi Văn M đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F7 có giá trị 3.500.000 đồng của ông Mai Xuân B. Sau đó, Bùi Văn M đã đầu thú và giao nộp chiếc điện thoại đã chiếm đoạt.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đối với bị cáo Bùi Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tình hình tội phạm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Pleiku ngày càng gia tăng, phức tạp, manh động và ngày càng nguy hiểm hơn.

[3] Xét hành vi của  bị cáo: khi thấy sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản trong việc quản lý tài sản là bị cáo liền nảy sinh ý định chiếm đoạt và đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 3.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, nên cần phải xử bị cáo một mức án nghiêm.

[4] Tuy nhiên xét quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo ra đầu thú về hành vi phạm tội của mình, ngoài ra bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, nhưng bị cáo lại không có nơi cư trú rõ ràng nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo được biện pháp răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về dân sự: Người bị hại đã nhận được tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Bùi Văn M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn M phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn M 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2018.

-  Căn cứ: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Bùi Văn M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yếu tại Ủy ban nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về