Bản án 183/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 183/2019/HS-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 175/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1987, tại tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn 8, xã V, huyện C, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Tổ 2, Ấp 5, xã L, huyện T, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn X (đã chết) và bà Trần Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/5/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Phan Thị Bạch T, sinh năm 1971; địa chỉ: Kiot 01, số D4/30 khu phố T, phường G, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Hồ Văn T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 05/5/2019, Trần Văn T đi bộ trong khu dân cư Thuận Giao và đi ngang qua cơ sở trọ D4/30 khu phố T, phường G, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì T nhìn thấy căn kiốt số 01 do gia đình bà Phan Thị Bạch T thuê và sinh sống không khóa cửa, bên trong còn bật đèn. Khi nhìn vào trong phòng, Thành thấy bà T đang nằm ngủ trên võng, trên người bà T có đặt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F9 màu đỏ và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng phía sau ốp lưng của điện thoại nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T lén lút đi vào trong phòng đến vị trí bà T đang nằm ngủ rồi dùng tay phải lấy trộm chiếc điện thoại. Khi vừa lấy được điện thoại Thành quay trở ra định bỏ đi thì bị bà T thức dậy phát hiện truy hô nên T cầm chiếc điện thoại trên tay bỏ chạy. Lúc này, chồng của bà Tuyết là ông Hồ Văn T đang nằm ngủ trên võng trước căn kiốt nghe bà T truy hô nên đuổi theo T, T bỏ chạy được khoảng 100 mét thì bị ông T cùng người dân bắt giữ giao công an xử lý.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9 màu đỏ; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng.

Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An ngày 09/5/2019 xác định 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9 màu đỏ trị giá 6.000.000 đồng.

Đối với vật chứng thu giữ là 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9 màu đỏ và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng xác định là của bà Phan Thị Bạch T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An xử lý vật chứng trả lại cho bà T và bà không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bản cáo trạng số 192/CT-VKS-TA ngày 11/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo Trần Văn T về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề sau: Bị cáo có nhân thân tốt; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 06 đến 08 tháng tù.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố, thể hiện sự ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 05/5/2019, tại Kiot số 01 khu nhà trọ D4/30 khu phố T, phường G, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo T đã lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F9 màu đỏ và 100.000 đồng của bà Phan Thị Bạch T thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; tài sản bị cáo chiếm đoạt theo kết luận định giá có trị giá 6.100.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

[4] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm Hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/5/2019.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:183/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về