Bản án 185/2017/HSPT ngày 18/09/2017 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 185/2017/HSPT NGÀY 18/09/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 18/9/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 158/2017/HSPT ngày 30/8/2017 đối với các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Lê Hữu Th và Nguyễn Quang L do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

1.  NGUYỄN DUY L (C), sinh ngày 10/11/1996 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn A3, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201674xxx; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Không rõ; Con bà: Nguyễn Thị B (s); Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị bắt giam ngày 23/01/2017. Có mặt.

2.  NGUYỄN ANH T, sinh ngày 22/9/1994 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 08, thôn A3, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201677xxx; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Th (s) và bà Nguyễn Thị L (s); Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị bắt giam ngày 23/01/2017. Có mặt.

3.  LÊ HỮU TH, sinh ngày 21/8/1994 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 5, thôn A 1, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201674xxx; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Lê Văn Ph (s) và bà Nguyễn Thị Mỹ G (s); Có vợ là Nguyễn Thị Như Y và có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt.

4.  NGUYỄN QUANG L, sinh ngày 01/01/1998 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã H, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: thôn A 3, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201767xxx; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Quang Tr (s) và bà Lê Thị S (s); Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị bắt giam ngày 22/5/2017. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 29/11/2016, Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L, Lê Hữu Th, Phan Quốc H, V và một người bạn của V (không rõ lai lịch) cùng ngồi nhậu tại quán K, số 22 đường N, quận C, thành phố Đà Nẵng. Khi đang nhậu thì L kể trước đó, có mâu thuẫn với một nhóm thanh niên (trong đó có một người tên thường gọi là Đ) nên rủ cả nhóm đi đánh. Tất cả đều đồng ý, riêng H không đồng ý tham gia vì H cho rằng đây không phải việc của mình và ở lại quán. Cả nhóm gồm 06 người điều khiển 03 xe mô tô, T chở L bằng xe Sirius BKS 43K1 – 139.44, bạn của V chở V bằng xe Jupiter BKS 43K1 – 179.42, Th chở L bằng xe Suzuki Viva (không xác định được BKS). Khoảng 22 giờ 30 phút, khi đến trước quán Internet N, đường K, quận C, thành phố Đà Nẵng thì L nhìn thấy anh Nguyễn V1 nhưng nhầm tưởng là Đ nên cầm dao (dài khoảng 70cm) xông vào chém anh V1 một nhát trúng vào vai trái; T cầm một con dao (dài khoảng 40cm, của L đưa trước đó) chém trúng mũ bảo hiểm của anh V1 đang đội, không gây thương tích; V tiếp tục cầm một con dao chém trúng vào lưng nhưng chỉ làm rách áo, còn bạn của V đứng đằng sau, Th và L đứng chờ ở lề đường để hỗ trợ khi cần thiết. Sau khi đánh xong, L nhận ra đánh nhầm người nên cả nhóm bỏ đi. Đi được một đoạn, L rủ cả nhóm tiếp tục quay lại, tìm anh V1 để hỏi về tung tích của Đ. Khi đến đoạn đường gần ký túc xá D (thuộc phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng) thì cả nhóm nhìn thấy anh V1 đang được anh Nguyễn Như Ng chở đi bệnh viện. L, T, V, bạn của V xông đến, chặn xe lại, Th và L bỏ về quán nhậu K. L và T dùng tay tát vào mặt anh V1 một cái rồi hỏi về tung tích của Đ, anh V1 trả lời không biết. Sau đó, nhóm của L quay lại quán nhậu K, anh V1 được đưa đi cấp cứu.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 349/TgT ngày 30/12/2016 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế thành phố Đà Nẵng, kết luận anh Nguyễn V1 bị: Vết thương vai trái gây mẻ ngành ngang xương vai, đã phẫu thuật khâu nối lại thành mảnh nhỏ xương vai, khâu vết thương. Hiện tại tổn thương bên ngoài đã lành sẹo, vai trái cử động được nhưng còn hạn chế nhẹ do đau; tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12%.

Tại Bản án sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Duy L 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 23/01/2017.

2. Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Anh T 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 23/01/2017.

3. Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Quang L 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 22/5/2017.

4. Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Lê Hữu Th 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 27/7/2017, các bị cáo Nguyễn Anh T và Nguyễn Quang L đều có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng xin được cứu xét để vụ án được đưa ra xét xửu theo trình tự phúc thẩm.

Ngày 29/7/2017, bị cáo Nguyễn Duy L có đơn kháng cáo với nội dung:   Án sơ thẩm xử nặng xin được cứu xét để vụ án được đưa ra xét xửu theo trình tự phúc thẩm.

Ngày 31/7/2017, bị cáo Lê Hữu Th có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình đang nuôi con nhỏ và vợ đang mang thai sắp sinh, xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm có điều kiện hòa nhập xã hội và làm lại cuộc đời.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy Bản án sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét vai trò, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo khi lượng hình, xử phạt các bị cáo với mức án như vậy là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự là đúng tội và các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có cơ sở xác định:

Tối ngày 29/11/2016, các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th đã dùng dao là hung khí nguy hiểm chém anh Nguyễn V1, gây thương tích cho anh V1 với tỷ lệ thương tích 12%. Do đó, Bản án sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã xét xử các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th: Hội đồng xét xử xét thấy: Chỉ vì những mâu thuẫn với một người tên Đ mà các bị cáo cùng với một người tên V mang theo 03 con dao là hung khí nguy hiểm tìm người tên Đ để đánh. Khi gặp anh Nguyễn V1, mặc dù không có mâu thuẫn gì với anh V1 nhưng các bị cáo đã xông vào dùng dao chém vào vùng vai trái, vùng đầu  và vùng lưng khiến anh V1 bị thương tích 12%. Sau khi biết đánh nhầm người các bị cáo đã bỏ đi nhưng sau đó lại tiếp tục quay trở lại dùng tay đánh vào mặt người bị hại (anh V1) để tra khảo về tung tích của người tên Đ, cản trở việc đưa anh V1 đi cấp cứu. Hành vi phạm tội của các bị cáo là hết sức côn đồ, hung hãn, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó đối với các bị cáo này cần phải bị xử phạt thật nghiêm khắc, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục, răn đe đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng về tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, đồng thời áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng theo quy định pháp luật, xử phạt bị cáo L 36 tháng tù, bị cáo T 30 tháng tù, bị cáo L 24 tháng tù và bị cáo Th 12 tháng tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra. Các quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo cũng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt của các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Duy L 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 23/01/2017.

- Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Anh T 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 23/01/2017.

- Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Quang L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 22/5/2017.

- Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Lê Hữu Th 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Nguyễn Duy L, Nguyễn Anh T, Nguyễn Quang L và Lê Hữu Th, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

389
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 185/2017/HSPT ngày 18/09/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:185/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về