Bản án 185/2017/HSST ngày 30/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 185/2017/HSST NGÀY 30/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, số 06 đường Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ  Chí  Minh  mở  phiên  tòa  xét xử  sơ  thẩm  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số 119/2017/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyn Hoàng T; Giới tính: Nam; Sinh ngày 08 tháng 6 năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: Đường M, Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Làm dép; Con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ngọc T; Chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 30 tháng 5 năm 2017. (Có mặt)

Ngưi bị hại: Bà Phạm Kiều D; Địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện M, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

Ngưi bào chữa: Ông Nguyễn Khắc H, Luật sư – Cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 23 giờ 50 phút, ngày 29 tháng 5 năm 2016, bị cáo đến Bệnh viện N, đường D, phường E, Quận 1 để trộm cắp tài sản. Bị cáo đi đến phòng số 01, khoa Nội 3, tầng 3 thì phát hiện bà Phạm Kiều D đang nằm ngủ, trong túi áo có chiếc điện thoại di động. Bị cáo dùng tay phải lấy trộm chiếc điện thoại đi động của bà Phạm Kiều D bỏ vào túi quần bên trái phía trước rồi đi nhanh về hướng cầu thang khoa Thần kinh thì bị các anh bảo vệ bệnh viện phát hiện bắt giữ cùng vật chứng đưa về Công an phường E, Quận 1 lập biên bản phạm tội quả tang sau đó chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 thụ lý vụ án.

Tại bản cáo trạng số 124/CTr-VKS ngày 24 tháng 7 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù; tịch thu tiêu hủy 01 ba lô màu đen, 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài màu đen thu giữ của bị cáo vì không có giá trị, không sử dụng được.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản trộm cắp được đã trả cho người bị hại, người bị hại có đơn bãi nại và không yêu cầu xử lí hình sự để giảm nhẹ mức hình phạt đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng.

Bị cáo đã có hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người bị hại. Lợi dụng sơ hở của người bị hại khi đang ngủ, bị cáo đã lấy trộm được chiếc điện thoại di động và dấu vào trong người, trong lúc bỏ đi thì bị bắt giữ.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, phù hợp với sự thật khách quan của vụ án đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét:

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 070/KLGĐTS ngày 10 tháng 6 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc điện thoại hiệu Sony Xperia C5 màu trắng có giá trị 3.000.000 đồng do đó cần áp dụng hình phạt theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Bị cáo phạm tội lúc 17 tuổi 11 tháng 21 ngày là người chưa thành niên phạm tội nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 69, khoản 1 Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 khi quyết định hình phạt.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản trộm cắp được đã trả cho người bị hại, người bị hại có đơn bãi nại và không yêu cầu xử lí hình sự nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo các điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

Về xử lý vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia C5 màu trắng đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên Hội đồng xét xử không xét; 01 ba lô màu đen, 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài màu đen thu giữ của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy vật chứng không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; khoản 1 Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 06 (Sáu) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 5 năm 2017.

- Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003Tịch thu tiêu hủy 01 ba lô màu đen, 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài màu đen (Phiếu nhập kho vật chứng số 269/17/PNK ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Công an Quận F)

- Áp dụng Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 231, Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 185/2017/HSST ngày 30/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:185/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về