Bản án 19/2018/HS-ST ngày 04/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 19/2018/HS-ST NGÀY 04/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2018/TLST-HS, ngày 13 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Trương Văn Ph, sinh ngày: 10.02.1998, tại: Bình Định; Nơi cư trú: Thôn Tân L, Cát T, Phù C, Bình Định; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Văn Ch, SN: 1973 và bà: Nguyễn Thị X, SN: 1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 30.5.2018 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Thái H, sinh ngày: 12.9.1999, tại: Bình Định; Nơi cư trú: Thôn Tân L, Cát T, Phù C, Bình Định; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Minh Ch, SN: 1947 và bà: Trương Thị L, SN: 1955; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Quốc Kh, sinh ngày: 10.7.1999, tại: Bình Định; Nơi cư trú: Thôn Tân L, Cát T, Phù C, Bình Định; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Thanh T, SN: 1977 và bà: Nguyễn Thị Hồng Q, SN: 1980; Vợ: Trương Thị L, SN: 2000; Con: 01 người, SN: 2017; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Huỳnh Thái H:

Bà Trương Thị L, SN: 1955 - là mẹ của bị cáo. (Có mặt).

Trú tại: Thôn Tân L, Cát T, Phù C, Bình Định.

* Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Nguyễn Quốc Kh:

Ông Nguyễn Thanh T, SN: 1977 - là cha của bị cáo. (Có mặt).

Trú tại: Thôn Tân L, Cát T, Phù C, Bình Định.

* Người bị hại:

- Ông Lê Văn H, sinh năm: 1947. (Có mặt).

Trú tại: Mỹ H, Cát H, Phù C, Bình Định.

- Anh Võ Văn H sinh năm: 1991. (Vắng mặt).

Trú tại: Khu An Kh, TT.Ngô M, Phù C, Bình Định.

- Ông Nguyễn Văn A, sinh năm: 1969. (Vắng mặt).

Trú tại: Khu An Ph, TT.Ngô M, Phù C, Bình Định.

- Ông Trương Văn Tr sinh năm: 1965. (Vắng mặt).

Trú tại: Khu An Ph, TT. Ngô M, Phù C, Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vì muốn có cây cảnh để chơi nên trong khoảng thời gian từ ngày 14/6/2017 đến ngày 10/11/2017, lợi dụng đêm tối và sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của các chủ sở hữu, Trương Văn Ph đã rủ Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh cùng thực hiện hành vi trộm một số cây cảnh trên địa bàn các xã Cát Tân, Cát Hành và TT. Ngô Mây huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 14/6/2017, Trương Văn Ph điều khiển xe mô tô 77E1-189.93 chở Huỳnh Thái H đi dạo tìm cây cảnh để trộm, khi đến trước một nhà dân ở trên đường Quốc lộ 1A thuộc thôn Hòa Dõng, Cát Tân, Phù Cát, Trương Văn Ph thấy 01 cây lộc vừng dáng trực lắc, đường kính thân 11cm, cây cao 1,3m, tán cây hình chóp nón rộng (1,2x1) m trồng trong chậu trước nhà nên rủ H trộm, H đồng ý. Cả hai lén lút đến khiêng cây lộc vừng lên xe chở về nhà Ph cất giấu. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Cát kết luận cây lộc vừng trên trị giá 1.000.000 đồng.

- Vụ thứ 2: Đêm ngày 20/6/2017, Phú rủ H và Kh đi trộm cây cảnh về chơi, cả hai đồng ý. Kh điều khiển xe mô tô 77E1- 189.93 chở Ph và H đến trước nhà ông Lê Văn H (1947) ở Mỹ Hóa, Cát Hanh, Phù Cát, thấy bên hông nhà có một số cây cảnh nên Kh dừng xe cảnh giới, còn Ph và H lén lút vào trong nhổ trộm 01 cây mai dáng trực lắc, đường kính thân cây 10,5cm, cây cao 80cm, tán cây hình chóp nón rộng 65cm và 01 cây mai dáng trục lắc, đường kính thân cây 8cm, cây cao 100cm, tán cây hình chóp nón rộng 80cm rồi đem về nhà Ph cất giấu. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Cát kết luận 02 cây mai trên có tổng trị giá 3.000.000 đồng.

- Vụ thứ 3: Tối ngày 26/6/2017, Phú rủ H đi trộm cây cảnh, H đồng ý. Khoảng 01 giờ ngày 27/6/2018, Ph điều khiển xe mô tô 77E1- 189.93 chở H đến trước nhà anh Võ Văn H (1991) ở Khu An Khương, TT. Ngô Mây, Phù Cát thì thấy 01 cây mai dáng trực lắc, đường kính thân cây 06cm, cây cao 1,5m, tán cây hình chóp nón rộng 1.05m trồng trong chậu nên cả hai dừng xe, lén lút đến nhổ cây mai trên đem về nhà Phú cất giấu. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Cát kết luận cây mai trên có trị giá 2.000.000 đồng.

- Vụ thứ 4: Tối ngày 28/6/2017, Phú rủ H đi trộm cây cảnh thì H đồng ý. Khoảng 01 giờ ngày 29/6/2018, Phú điều khiển xe mô tô 77E1- 189.93 chở H đến trước nhà ông Nguyễn Văn A (1969) ở Khu An Phú, TT. Ngô Mây, Phù Cát thì thấy 01 cây mai dáng trực lắc, đường kính thân cây 10cm, cây cao 1,3m, tán cây hình chóp nón rộng 1,0m trồng trong chậu nên cả hai dừng xe, lén lút đến nhổ cây mai trên đem về nhà Phú cất giấu. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Cát kết luận cây mai trên có trị giá 1.500.000 đồng.

- Vụ thứ 5: Khoảng 01 giờ ngày 10/11/2017, trên đường điều khiển xe mô tô 77E1- 189.93 chở Huỳnh Thái H về nhà, Trương Văn Ph thấy 01 cây mai dáng trực lắc, đường kính thân cây 11,5cm, cây cao 1,9m, tán cây hình chóp nón rộng 1,8m ở trước nhà ông Trương Văn Tr (1965) ở khu An Phú, TT. Ngô Mây, Phù Cát nên rủ H lấy trộm thì H đồng ý. Cả hai lén lút nhổ trộm cây mai trên khỏi chậu rồi bỏ lên xe đem về nhà Phú cất giấu. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Cát kết luận cây mai trên có trị giá 5.000.000 đồng.

* Vật chứng: Tạm giữ 07 cây mai cảnh và 01 cây lộc vừng, có đặc điểm như biên bản tạm giữ. Trong giai đoạn điều tra đã xử lý trả lại 05 cây mai cảnh cho người bị hại và bàn giao 02 cây mai cảnh cho Công an huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xử lý theo thẩm quyền. Riêng 01 cây lộc vừng, Cơ quan điều tra đã thông báo và tiến hành xác minh nhưng chưa tìm được chủ sở hữu.

* Phần dân sự: Những người bị hại sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKSPC, ngày 13.8.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát truy tố các bị cáo Trương Văn Ph, Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự (BLHS1999).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trương Văn Ph, Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS 1999.

Đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g, n khoản 1 Điều 48, Điều 20, Điều 53, Điều 33 BLHS xử phạt bị cáo Trương Văn Ph 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 20, Điều 53, Điều 69, Điều 74 BLHS xử phạt bị cáo Huỳnh Thái H 06 đến 08 tháng tù.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 20, Điều 53, Điều 69, Điều 73 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc Kh 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ.

Trong phần tự bào chữa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi, diễn biến của vụ án như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên Tòa. Như vậy, đủ cơ sở chứng cứ và yếu tố pháp lý kết luận:

Vì muốn có cây cảnh để chơi, Trương Văn Ph đã khởi xướng việc trộm cắp tài sản, đã rủ rê Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh đi trộm cắp tài sản, cả bọn đồng ý. Trong khoảng thời gian từ ngày 14.6.2017 đến ngày 10.11.2017 Trương Văn Ph và đồng phạm đã lén lút thực hiện 05 vụ lấy trộm 06 cây cảnh trên địa bàn huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 12.500.000 đồng. Trong đó, Trương Văn Ph và Huỳnh Thái H đã thực hiện tổng cộng 05 vụ chiếm đoạt tài sản có tổng trị giá 12.500.000 đồng, Nguyễn Quốc Kh tham gia 01 vụ chiếm đoạt tài sản có tổng trị giá 3.000.000 đồng.

[2] Hành vi trộm cắp tài sản tuy có nhiều người tham gia nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ với nhau, chỉ mang tính đồng phạm giản đơn, tất cả các bị cáo tham gia với tư cách là người thực hành, riêng Trương Văn Ph còn là người khởi xướng và rủ rê.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Hành vi của các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý. Đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Xét tính chất nguy hiểm của hành vi, lỗi của bị cáo đã thực hiện. Hội đồng xét xử xác định VKSND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định truy tố các bị cáo Trương Văn Ph, Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của BLHS 1999 là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử kết luận: Các bị cáo Trương Văn Ph, Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 1999. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung, góp phần ổn định tình hình an ninh ở địa phương.

[3] Xét vai trò, mức độ phạm tội của từng bị cáo để quyết định hình phạt:

Bị cáo Trương Văn Ph với vai trò vừa là người khởi xướng, rủ rê, vừa là người thực hành tích cực cùng đồng bọn thực hiện 05 vụ trộm cắp, chiếm đoạt 12.500.000 đồng. Bị cáo có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần và xúi giục người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại điểm g, n, khoản 1 Điều 48 BLHS. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Do đó, hình phạt đối với bị cáo Ph phải nghiêm khắc và cao hơn so với đồng bọn.

Bị cáo Huỳnh Thái H trực tiếp thực hiện 05 vụ trộm cắp, chiếm đoạt 12.500.000 đồng. Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Do đó, hình phạt của bị cáo H phải cao hơn so với bị cáo Kh. Khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, do đó áp dụng Điều 69, Điều 74 để xét xử bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Quốc Kh thực hiện cùng đồng bọn 01 vụ trộm cắp, chiếm đoạt 3.000.000 đồng; bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, do đó nghĩ nên áp dụng Điều 69, Điều 73 để xét xử bị cáo. Bị cáo là người chưa thành niên nên không khấu trừ thu nhập.

Các bị cáo Ph, H, Kh đều được các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được coi là tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Số tài sản bị mất, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Cát đã thu hồi và xử lý trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét. Riêng 01 cây lộc vừng, Cơ quan điều tra đã thông báo và tiến hành xác minh nhưng không tìm được chủ sở hữu nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Các bị cáo Trương Văn Ph, Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm g, n khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: Bị cáo Trương Văn Ph 08 (tám) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 30.5.2018.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm g, khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 74, Điều 47 Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thái H 05 (năm) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 73 Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc Kh 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giám sát giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Quốc Kh cho UBND xã Cát Tân, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

* Về trách nhiệm dân sự: Không.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước một cây lộc vừng (như biên bản giao nhận vật chứng mô tả) hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

* Về án phí: Buộc các bị cáo Trương Văn Ph, Huỳnh Thái H và Nguyễn Quốc Kh mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

* Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điểm 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HS-ST ngày 04/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cát - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về