Bản án 19/2018/HSST ngày 05/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 19/2018/HSST NGÀY 05/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/03/2018, tại hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2018/HSST ngày 01/02/2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/QĐXX-ST ngày 22/02/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Kh ; tên gọi khác: Không; sinh năm 1963.

Nơi cư trú: xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; tiền sự: Không.

* Tiền án: Tại bản án số 43/2007/HSST ngày 19/7/2007, Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xử phạt 09 năm tù về các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 27/12/2014 chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm.

* Nhân thân:

+ Tại bản án số 06/1995/HSST ngày 18/01/1995, Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên (nay là thị xã Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên xử phạt 9 tháng tù về tội “Tổ chức dùng chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án đương nhiên được xóa án tích.

+ Tại bản án số 75/1999/HSPT ngày 05/4/1999, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án đương nhiên được xóa án tích.

Con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị T; gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ ba; có vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1966; vợ chồng có 02 con chung, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1990.

Bị cáo bị giam giữ từ ngày 13/12/2017 đến nay, tại nhà tạm giữ, lưu giam Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Đào Xuân H, sinh năm 1970; trú quán: xóm Phú Thịnh, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1966; trú quán: xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1990; trú quán: xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 13/12/2017, Tổ công tác Công an thị xã Phổ Yên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại chỗ ở của Nguyễn Văn Kh (sinh năm 1963, trú tại: xóm Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên) có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy, tổ công tác đến chỗ ở của Kh để kiểm tra, qua kiểm tra Nguyễn Văn Kh đã tự nguyện lấy từ túi áo khoác phía trước đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có: 06 gói giấy màu trắng bạc, bên trong mỗi gói đều chứa chất rắn màu trắng đục; 15 gói giấy màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng đục; 13 gói giấy màu vàng bên trong mỗi gói đều chứa chất rắn màu trắng đục và 01 lọ nhựa màu cam bên trong có chứa 11 viên nén màu đỏ (theo Nguyễn Văn Kh khai số tang vật trên là ma túy loại hêrôin và ma túy tổng hợp). Trong quá trình khám còn thu giữ số tiền 350.000đồng tại túi áo khoác phía trước bên phải Kh đang mặc.

Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và niêm phong số vật chứng để xử lý theo quy định.

Tiến hành mở niêm phong cân trọng lượng số tang vật thu giữ của Nguyễn Văn Kh, ngày 13/12/2017 xác định: Gói niêm phong được thu giữ có ký hiệu A bên trong 01 lọ nhựa màu trắng, bên trong lọ nhựa có: 06 gói giấy bạc bên trong mỗi gói chứa chất rắn màu trắng đục có trọng lượng 0,991gam (đã trừ bì); 15 gói giấy màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng đục có trọng lượng 0,588gam (đã trừ bì); 13 gói giấy màu vàng bên trong mỗi gói đều chứa chất rắn màu trắng đục có trọng lượng 0,932gam (đã trừ bì). 11 viên nén màu đỏ có trọng lượng 1,117 gam (đã trừ bì). Sau khi cân trọng lượng số vật chứng tiếp tục niêm phong gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 148/KL-PC54 ngày 19/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất rắn màu trắng đục thu giữ của Nguyễn Văn Kh trong 19 gói ( gồm 06 gói giấy bạc màu trắng và 13 gói giấy bạc màu vàng)   là chất ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng (khối lượng): 1,923 gam; 15 gói giấy màu trắng, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng đục là là chất ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng (khối lượng): 0,588 gam và 11 viên nén màu đỏ là chất ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng(khối lượng) là  1,117 gam.

Quá trình điều tra Kh khai nhận: Bản thân nghiện ma tuý, nên khoảng giữa tháng 11/2017, bị cáo mua của một người Nam giới không biết tên tuổi, địa chỉ tại cổng nhà ở của Kh ở xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên với giá 1.500.00đồng, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.

Tại Bản cáo trạng số 20/CT-VKSPY, ngày 01/02/2018 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Văn Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015

Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố. Căn cứ để Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 để xét xử đối với bị cáo vì “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 là tội ghép, nay được tách thành một điều riêng được quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015. Căn cứ vào Nghị quyết 41/2017/QH12 ngày 20/6/2017 hướng dẫn việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 thì khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ “một năm đến năm năm” nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ “hai năm đến bẩy năm”. Từ phân tích trên Viện kiểm sát đề nghị HĐXX.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (tái phạm); Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn Kh từ 30 - 36 tháng tù.

* Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích mua ma túy về sử dụng, không có hành vi vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

* Vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 BLHS 2015; Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu huỷ số vật chứng gồm:

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn lại 0,946gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N ghi hoàn lại 0,536gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K ghi hoàn lại 0,890gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi hoàn lại 0,818gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu H ghi mẫu lưu kho

- Đối với số tiền 350.000đ thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo quản lý, sử dụng nhưng cần tạm giữ số tiền 200.000đ để đảm bảo thi hành án; trả lại bị cáo số tiền 150.000đ. Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói cuối cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về Điều luật truy tố đối với bị cáo. Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH12 ngày 20/6/2017 hướng dẫn việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 và Công văn 04/TANDTC-PC hướng dẫn tại điểm d mục 1: Các điều luật mới quy định tội danh được tách ra từ các tội ghép trong Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2009 (sau đây gọi Bộ luật Hình sự năm 1999), nếu có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm2018 để giải quyết; nếu không có lợi cho người phạm tội thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có khung hình phạt cao nhất đến 05 năm tù nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 khung hình phạt cao nhất của loại tội này đến bẩy năm tù.

Do đó việc Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 để xét xử đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, được chấp nhận (do điều luật có lợi cho người phạm tội).

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên toà là khách quan, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng thu được và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 4 phút, ngày 13/12/2017, tại nhà ở của Nguyễn Văn Kh ở xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn Kh đã có hành vi tàng trữ trái phép 34 gói ma túy, có tổng trọng lượng (khối lượng) 2,511 gam, qua giám định là chất Hêrôin, và 11 viên nén màu đỏ qua giám định là chất ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng (khối lượng) là 1,117 gam mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.

[4] Hành vi, ý thức của Nguyễn Văn Kh đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Bản cáo trạng số 20/CT- VKSPY ngày 01/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung điểm c khoản 1 Điều 249 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

a)...............

c) Heroine.........có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[5] Xét tính chất vụ án thấy: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma tuý là mặt hàng cấm do nhà nước độc quyền quản lý, song do thỏa mãn nhu cầu của bản thân đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ các con nghiện trên địa bàn. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Xét nhân thân bị cáo thấy: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo là người có nhân thân xấu: Tại bản án số 43/2007/HSST ngày 19/7/2007, Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xử phạt 09 năm tù về các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày27/12/2014 chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm.Ngoài ra năm 1995 và năm 1999 bị xét xử về tội “Tổ chức dùng chất ma túy” và tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo không lấy đó làm bài học rèn luyện bản thân, từ bỏ ma tuý, làm ăn lương thiện, trái lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

[7] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được lỗi lầm của mình đã gây ra nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; ngoài ra bị cáo có bố là ông Nguyễn Văn Quảng là người đã có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì nên cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 là tái phạm.

[8] Hội đồng xét xử khi lượng hình thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử lý về các hành vi phạm tội khác nhau, trong vụ án này bị cáo tàng trữ với số lượng ma túy tương đối lớn. Do đó thấy cần phải có mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đen phòng ngừa chung.

Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[9] Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hiện không nghề nghiệp, phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[10] Vt chứng của vụ án thu giữ gồm:

- Số ma túy là hêrôin và Mathamphetamine hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 350.000đ thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo quản lý, sử dụng nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[11] Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

Về nguồn gốc ma tuý, Kh khai mua của một đối tượng nam giới không biết tên, tuổi địa chỉ tại cổng nhà ở của Kh xóm Triều Lai 2, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên. Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Kh phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Kh 4 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/12/2017.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn Kh 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 BLTTHS

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn lại 0,946gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N ghi hoàn lại 0,536gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu K ghi hoàn lại 0,890gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu L ghi hoàn lại 0,818gam còn lại sau giám định.

+ 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu H ghi mẫu lưu kho (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã PhổYên với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 05 /02/2018).

- Tạm giữ số tiền 350.000đ thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang để đảm bảo thi hành án (Tại Uỷ nhiệm chi số 21 lập ngày 06/02/2018).

4.Án phí: Căn cứ điều 135, 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Kh phải chịu 200.000đ án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HSST ngày 05/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về