Bản án 19/2018/HSST ngày 17/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 19/2018/HSST NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2018, tại Hội trường Ủy ban nhân dân phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Tuấn A, sinh ngày 03/9/1988 tại tỉnh Thái Nguyên.

Nơi cư trú tại tổ 5, phường GS, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; không nghề nghiệp; trình độ văn hóa lớp12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; không tôn giáo; quốc tịch Việt Nam; con ông Phạm Thành C và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Diệp Kiều Ch (đã ly hôn) và 01 con; không có tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 24/01/2018 đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Tuấn Anh (do Đoàn luật sư cử theo yêu cầu của Tòa án): Luật sư Nguyễn Mạnh A1, Văn phòng luật sư AT thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 15 giờ 45 phút ngày 24/01/2018 tại khu vực đường thanh niên xung phong thuộc tổ 11, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực trên phát hiện bắt quả tang Phạm Tuấn A đang có hành vi cất giấu ma túy trong người; cụ thể thu giữ tại túi quần bên phải Tuấn Anh đang mặc 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng có khối lượng 9,43 gam nghi là ma túy tổng hợp dạng đá; 01 túi ni lon màu xanh bên trong đựng 197 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh nghi là viên ma túy tổng hợp có tổng khối lượng là 20,28 gam. Ngoài ra con thu giữ của Tuấn A 01 điện thoại di động Nokia và số tiền 1.400.000đ.

Cùng ngày Cơ quan điều tra khám xét chỗ ở của Phạm Tuấn A ở tổ 5, phường GS, thành phố Thái Nguyên phát hiện thu giữ tiếp 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa 20 viên nén màu hồng nghi là viên ma túy tổng hợp có khối lượng 1,9 gam; 01 gói bằng giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine có khối lượng 0,21 gam.

Cơ qua điều tra đã trưng cầu giám định các chất nghi là chất ma túy thu giữ của Phạm Tuấn A kết quả như sau: Tại Kết luận giám định số 324/KL-PC54 ngày 31/01/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận có nội dung: Chất tinh thể màu trắng có khối lượng 9,43 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine; các viên nén màu hồng và màu xanh có tổng khối lượng 22,18 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine; chất bột màu trắng có khối lượng 0,21 gam là chất ma túy, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Tuấn A khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 24/01/2018 Tuấn Anh đi ra khu vực đường thanh niên xung phong thuộc tổ 11, phường GS, thành phố TN mua của một người nam giới không quen biết 01 gói ma túy đá, 199 viên ma túy tổng hợp hết 15.800.000đ mục đích mua về để bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời thì bị Cơ quan điều tra phát hiện thu giữ. Ngoài ra Tuấn A còn khai trước đó vào sáng ngày 23/01/2018 Tuấn A đến khu vực bến xe ô tô khách Thái Nguyên mua 20 viên hồng phiến và 01 gói Heroine của một người nam giới không quen biết hết 2.000.000đ sau đó mang về nhà cất giấu mục đích cũng để bán lại kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ khi khám xét như trên.

Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ của Phạm Tuấn A là 31,61 gam Methamphetamine và 0,21 gam Heroine.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-P1 ngày 23/3/2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố Phạm Tuấn A về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Phạm Tuấn A cũng khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã quy kết. Bị cáo nhận tội và chỉ xin mức án thấp nhất ở lời nói sau cùng.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi trình bày tóm tắt nội dung vụ án; đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội; xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận và đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Tuấn A từ 15 đến 16 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, phạt bổ sung bị cáo từ năm đến bẩy triệu đồng và đề nghị xử lý các vật chứng đã thu giữ theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trong luận cứ của mình nhất trí với tội danh mà cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo nhưng cho rằng lượng ma túy bị cáo mua bán khối lượng chỉ ở mức khởi điểm của khung hình phạt và đã được thu hồi nên đã hạn chế được hậu quả xẩy ra; bị cáo khai báo thành khẩn; hoàn cảnh của bị cáo là rất khó khăn. Từ đó Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo về hình phạt chính và hình phạt bổ sung dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản khám xét thu giữ vật chứng, kết luận giám định và nhiều tài liệu, chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Theo đó có đủ căn cứ kết luận: Phạm Tuấn A đã thực hiện hành vi mua bán 31,61 gam Methamphetamine và 0,21 gam Heroine. Do đó bị cáo bị truy tố về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a)...

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

[2] Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng bởi lẽ bị cáo mua bán nhiều loại ma túy với số lượng tương đối lớn. Việc mua bán trái phép chất ma tuý Nhà nước nghiêm cấm và pháp luật quy định hình phạt rất nghiêm khắc nhưng chỉ vì hám lời bị cáo đã bất chấp pháp luật nhằm thu lời bất chính; gây phương hại về nhiều mặt cho cộng đồng và xã hội. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm theo pháp luật để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên được áp dụng một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung: Với lượng ma túy mà bị cáo mua bán và các tình tiết nêu trên thấy có thể xử phạt bị cáo mức án khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

Ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung bị cáo năm triệu đồng nộp ngân sách nhà nước.

[5] Về vật chứng được xử lý theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; cụ thể tiền và tài sản thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án, các vật chứng khác không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy

[6] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Với phân tích trên thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận, đề nghị của người bào chữa được chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tuấn A phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

1. Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Tuấn A 15 (mười lăm) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2018.

Phạt bổ sung Phạm Tuấn A 5.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 niêm phong ký hiệu L1 có chữ ký của Phạm Tuấn A, các thành phần tham gia niêm phong và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT

- Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 19,65 gam Methamphetamine; 01 niêm phong ký hiệu L2 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Phạm Tuấn A, các thành phần tham gia niêm phong và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 8,83 gam Methamphetamine; 01 niêm phong ký hiệu L3 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của Phạm Tuấn A, các thành phần tham gia niêm phong và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 1,43 gam Methamphetamine; 01 niêm phong ký hiệu G1 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của các thành phần liên quan và 03 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,321 gam Methamphetamine; 01 niêm phong ký hiệu G2 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của các thành phần liên quan và 03 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,115 gam Methamphetamine, mẫu hoàn lại sau giám định; 01 niêm phong ký hiệu G3 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của các thành phần liên quan và 03 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,443 gam Methamphetamine, mẫu hoàn lại sau giám định; 01 niêm phong ký hiệu G4 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của các thành phần liên quan và 03 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,319 gam Methamphetamine, mẫu hoàn lại sau giám định; 01 niêm phong ký hiệu G5 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên của các thành phần liên quan và 03 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 0,174 gam Heroine, mẫu hoàn lại sau giám định.

- Tạm giữ của Phạm Tuấn A để đảm bảo thi hành án gồm: Số tiền 1.400.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu trắng đã cũ, có số IMEI 1: 356856075458765, IMEI 2: 356856075458773, không kiểm tra máy bên trong.

(Tiền và các vật chứng trên hiện đang có tại tài khoản và kho của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Phạm Tuấn A phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.Lƣơng Văn Hiển

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HSST ngày 17/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về