Bản án 19/2019/HSPT ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 19/2019/HSPT NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm mcông khai vụ án hình sự thụ lý số: 424/2018/HSPT ngày 14/12/2018, đối với bị cáo Hoàng Văn P. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2018/HSST ngày 07/11/2018, của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Hoàng Văn P, Sinh năm 1983, tại tỉnh Thanh Hóa.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã HN, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa. Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, thị trấn PA, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ông Hoàng Văn N (đã chết) và bà Trần Thị N1; bị cáo có vợ là Đoàn Thị H, có một con sinh năm 2013;

Tiền án: 03 tiền án, Bản án số 01/2011/HSST ngày 24/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện KB, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”; Bản án số 146/2013/HSPT ngày 09/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”; Bản án số 268/2015/HSPT ngày m23/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/7/2018, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra trong vụ án còn có 01 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21/7/2018, Hoàng Văn P chuẩn bị 02 giỏ xách và điều khiển xe mô tô biển số 47–375.23 chở Phạm Thị U đi từ thành phố B đến huyện E với mục đích trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khi đến cửa hàng bán đồ điện của gia đình chị Nguyễn Thị G thấy cửa hàng không có người trông coi nên P dừng xe bên ngoài để chờ và cảnh giới còn U đi vào trong lấy trộm được 11 cuộn dây đồng, 01 bịch đinh sắt và một xấp giấy nhám đưa ra ngoài bỏ vào giỏ xách và cùng nhau mang đến bán cho anh Huỳnh Thanh L được 4.000.000 đồng. Số tiền này P và U chia nhau mỗi người 2.000.000 đồng. Đến ngày 22/7/2018, P và U bị bắt tạm giữ để điều tra.

Ngoài ra quá trình điều tra, P và U còn khai nhận: Vào khoảng 11 giờ ngày 06/7/2018, P và U sử dụng xe mô tô biển số 47–375.23 đi từ thành phố B đến thôn Trung Tâm, xã ET, huyện E và trộm cắp của gia đình chị Thái Thị Hồng Đ 09 thùng bia lon các loại gồm: 06 thùng bia lon nhãn hiệu Heineken; 02 thùng bia lon hiệu Tiger; 01 thùng bia lon hiệu Sài gòn Lager. Sau đó mang đến bán cho anh Lê Bình A được 2.200.000 đồng, P và U chia nhau mỗi người 1.100.000 đồng và đã tiêu xài hết.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 11 cuộn dây đồng, tổng trọng lượng 28kg, gồm:

01 cuộn lõi 0,4mm, trọng lượng 02kg; 02 cuộn lõi 0,5mm, trọng lượng 05kg;

01 cuộn lõi 0,6mm, trọng lượng 03kg; 01 cuộn lõi 0,65mm, trọng lượng 03kg;

01 cuộn lõi 0,7mm, trọng lượng 04kg; 02 cuộn lõi 0,85mm, trọng lượng 04kg;

01 cuộn lõi 0,9mm, trọng lượng 01kg; 01 cuộn lõi 1,2mm, trọng lượng 02kg;

01 cuộn lõi 1,55mm, trọng lượng 04kg; 30 tờ giấy nhám hiệu Gushi loại 120;

10 kg đinh sắt, loại đinh 10.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YS, màu sơn vàng đen, biển số 47 – 375.23; 01 túi xách bằng nhựa sọc ca rô màu vàng – xanh, kích thước 55 x 25 x 46cm; 01 túi xách bằng nhựa màu đen, sọc ca rô màu vàng – xanh – hồng, kích thước 50 x 22 x 38cm.

Thu giữ của Hoàng Văn P số tiền 4.000.000 đồng, Phạm Thị U 1.300.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 45/2018/KL – HĐ 992 ngày 24/7/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:

01 cuộn dây đồng lõi 0,4mm. Trọng lượng 02 kg trị giá là: 430.000 đồng.

02 cuộn dây đồng lõi 0,5mm. Trọng lượng 05 kg trị giá là: 1.075.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 0,6mm. Trọng lượng 03 kg trị giá là: 645.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 0,65mm. Trọng lượng 03 kg trị giá là: 645.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 0,7mm. Trọng lượng 04 kg trị giá là: 860.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 0,85mm. Trọng lượng 04 kg trị giá là: 860.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 0,9mm. Trọng lượng 01 kg trị giá là: 215.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 1,2mm. Trọng lượng 02 kg trị giá là: 430.000 đồng.

01 cuộn dây đồng lõi 1,55mm. Trọng lượng 04 kg trị giá là: 860.000 đồng.

30 Tờ giấy nhám, nhãn hiệu Gushi, loại 120 trị giá 30.000 đồng.

10 kg đinh sắt; loại đinh 10 trị giá 250.000 đồng. Tổng giá trị: 6.300.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/2018/KL - HĐ 992 ngày 13/8/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 06 thùng bia lon hiệu Heineken, trị giá 2.250.000 đồng; 02 thùng bia lon hiệu Tiger, trị giá 315.000 đồng; m01 thùng bia lon hiệu Sài gòn Lager, trị giá 217.000 đồng.

Tổng giá trị: 3.090.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2018/HSST ngày 07/11/2018, của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Văn P và Phạm Thị U phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/7/2018.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị U 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/7/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 12/11/2018, bị cáo Hoàng Văn P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo P giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản mán hình sự sơ thẩm đã nêu trên. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo có nguyện vọng trả cho bị hại chị Thái Thị Hồng Đ số tiền 1.545.000đồng (Trong số tiền 2.000.000đồng hiện đang tạm giữ của bị cáo tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện E theo Biên lai thu tiền số 0007596 ngày 04/10/2018).

Đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mực độ của hành vi, nhân thân của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đảm bảo đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng tương xứng với tính chất mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra trên cơ sở đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về biện pháp chấp hành hình phạt tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào các ngày 06/7/2018 và ngày 21/7/2018, lợi dụng sơ hở về tài sản của người bị hại mà bị cáo Hoàng Văn P cùng đồng bọn đã lén lút chiếm đoạt các tài sản 11 cuộn dây đồng, 01 bịch đinh sắt và 30 tờ giấy nhám hiệu Gushi của chị Nguyễn Thị G; 09 thùng bia lon các loại của chị Thái Thị Hồng Đ. Tổng trị giá tài sản bị cáo P cùng đồng bọn chiếm đoạt là 9.390.000 đồng. Vì vậy, bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[2] Xét mức hình phạt 03 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Hoàng Văn P mà bản án sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản”, không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục đi trộm cắp tài sản. Bị cáo phạm tội nhiều lần, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Hoàng Văn P tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo có nguyện vọng được bồi thường thiệt hại cho chị Thái Thị Hồng Đ số tiền 1.545.000đồng (Trong số tiền 2.000.000đồng hiện đang tạm giữ của bị cáo tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện E theo Biên lai thu tiền số 0007596 ngày 04/10/2018) là tự nguyện nên cần chấp nhận và áp dụng thêm tình tiết bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại theo khoản b Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại Tòa án cấp sơ thẩm bị cáo có nguyện vọng bồi thường cho chị Thái Thị Hồng Đ số tiền nêu trên nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 1 Điều 589 của BLDS; khoản 1 Điều 48; điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để chấp nhận việc bị cáo tự nguyên trả lại giá trị tài sản trộm cắp cho người bị hại là thiếu sót cần rút kinh nghiệm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 – Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn P, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2018/HSST ngày 07/11/2018, của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; mđiểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn P 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/7/2018.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng khoản 1 Điều 589 của BLDS; khoản 1 Điều 48; điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Chấp nhận sự tự nguyện bồi thường 1.545.000đồng của bị cáo Hoàng Văn P cho bị hại chị Thái Thị Hồng Đ (Trong số tiền 2.000.000đồng hiện đang tạm giữ của bị cáo tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện E theo Biên lai thu tiền số 0007596 ngày 04/10/2018). Tiếp tục tạm giữ số tiền 455.000đ theo Biên lai thu tiền số 0007596 ngày 04/10/2018 để đảm bảo công tác thi hành án.

Chị Thái Thị Hồng Đ được nhận 1.545.000đồng tiền bồi thường của bị cáo Hoàng Văn P (Trong số tiền 2.000.000đồng hiện đang tạm giữ của bị cáo tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện E theo Biên lai thu tiền số 0007596 ngày 04/10/2018).

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HSPT ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về