Bản án 19/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2019/HSST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 03 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2019/HSST ngày 27 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 07/03/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Kế H, tên gọi khác: Oanh Tẹt; giới tính: Nam; sinh năm: 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường K, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Không có nơi ở nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 01/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Kế D và bà Nguyễn Thị S; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 03/12/2018 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1979.

Đa chỉ: phường T, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 01 giờ ngày 06/8/2018, Nguyễn Kế H đi chơi về ngang qua nhà chị Phạm Thị T (sinh năm: 1979), phường T, Quận H. H thấy nhà chị T đang sửa chữa, không có hàng rào bảo vệ, chỉ dựng chòi tạm phía trước để ở, do đó H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu xài, H đi vào phía sau nhà rồi đi vào chòi tạm nơi vợ chồng chị T đang ngủ, đến 01 tủ gỗ, H mở hộc tủ lấy 01 chiếc ví hình chữ nhật, màu đen, H mở ra thì thấy có tiền nên bỏ vào túi quần rồi đi ra ngoài tẩu thoát, khi về đến gần nhà H mở ví ra kiểm tra thì thấy có 16.000.000 đồng, H sử dụng số tiền trộm cắp được vào việc tiêu xài cá nhân và sử dụng ma túy hết.

Ngày 31/8/2018, chị T đến Công an phường Bình Trưng Tây, Quận 2 trình báo nên Công an phường Bình Trưng Tây, Quận 2 phối hợp với Đội Cảnh sát hình sự, Công an Quận 2 truy xét mời Nguyễn Kế H về làm việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2, H đã thừa nhận lén lút lấy trộm tài sản và tiền của chị T như đã nêu ở trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 chiếc ví màu nâu đen không rõ nhãn hiệu (đã qua sử dụng, không còn giá trị).

- Số tiền 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng do H tiêu xài hết.

Tng giá trị tài sản mà Nguyễn Kế H chiếm đoạt là 16.000.000 đồng. Đồ vật tạm giữ của Nguyễn Kế H.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu trắng, số Imel: 355403070378 424 (đã qua sử dụng).

Theo kết luận định giá tài sản 412 ngày 19/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh thì: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu trắng, số Imel: 355403070 378424 (đã qua sử dụng) có giá trị là 2.400.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Phạm Thị T yêu cầu H bồi thường số tiền 16.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận định giá tài sản và không có ý kiến gì khác.

Bản Cáo trạng số 13/CTr-VKS ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Nguyễn Kế H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Nguyễn Kế H đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 chiếc ví hình chữ nhật, màu đen bên trong có 16.000.000 đồng của chị Phạm Thị T vào ngày 06/8/2018 tại phường T, Quận H. Hành vi của bị cáo Nguyễn Kế H đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kế H từ 01 đến 02 năm tù.

Bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Kế H thừa nhận đã lợi dụng việc sơ hở trong quản lý tài sản của bị hại để lấy trộm 01 chiếc ví hình chữ nhật, màu đen bên trong có 16.000.000 đồng của chị Phạm Thị T. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng ... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Kế H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân và tổ chức được pháp luật bảo vệ. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Phạm Thị T yêu cầu bị cáo H phải bồi thường số tiền 16.000.000 đồng mà H đã chiếm đoạt. Tại phiên tòa, bị cáo H xác nhận rằng bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường, khắc phục H quả cho chị T. Bị cáo đồng ý chấp nhận yêu cầu của bị hại chị Phạm Thị T buộc bị cáo H phải bồi thường số tiền 16.000.000 đồng mà không cần phải chứng minh, xét đây là sự thỏa thuận tự nguyện và không trái pháp luật của các đương sự, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đi với: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu trắng, số Imel: 3554030 70378424 (đã qua sử dụng), thu giữ của bị cáo H, xét đây là tài sản riêng của bị cáo và không liên quan dến vụ án nên trả lại cho bị cáo H.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kế H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kế H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2018.

2.Về phần dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 357; Điều 468; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều 589 Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo H phải có trách nhiệm bồi thường cho chị Phạm Thị T số tiền: 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng. Thi hành tại Cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày chị T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo H không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ đối với số tiền trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu trả số tiền lãi cho chị T theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo H: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu trắng, số Imel: 3554030 70378424 (đã qua sử dụng).

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 05/QĐ-VKS ngày 26/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Kế H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 800.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về