Bản án 195/2018/HS-ST ngày 21/08/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 195/2018/HS-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Trong ngày 21/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 182/2018/TLST-HS ngày 27/6/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 197/2018/QĐXXST-HS ngày 07/8/2018 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1991, tại Điện Biên. Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Đội 10, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Đức P (Lò Văn P) - SN 1961 và con bà Lò Thi P - SN 1962; Bị cáo chưa lập gia đình; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại theo quyết định bảo lĩnh số 06 ngày 21/3/2018 của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Đ; Quyết định về việc bảo lĩnh số 04/QĐ-VKS-HĐB ngày 18/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ; Quyết định về việc bảo lĩnh số 09/2018/HSST-QĐBL ngày 28/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa

2. Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: Bà Quàng Thị C - SN 1966 Trú tại: Đội 9A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, vắng mặt có lý do.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty Bảo Hiểm Bưu Điện Tây Bắc thuộc Tổng công Ty CP Bảo hiểm Bưu Điện.

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Mạnh H1.

Chức vụ: Giám đốc Công ty Bảo hiểm Bưu điện Tây Bắc.

Đại diện tham gia tố tụng: Bà Lại Thị A.

Chức vụ: Trưởng phòng bảo hiểm Bưu Điện PTI Điện Biên, vắng mặt có lý do.

Địa chỉ: Phố 3, phường T, Thành phố Đ, tỉnh Điện Biên

4. Bị đơn dân sự: Bưu Điện tỉnh Điện Biên

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Văn V - Chức vụ Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Hà Văn V: Ông Hà Quang H2 - SN 1960, vắng mặt có lý do.

Chức vụ: Giám đốc Trung tâm khai thác vận chuyển thuộc Bưu điện tỉnh Điện Biên

Trú tại: SN 19, tổ 8, phường M, Thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.

5. Người làm chứng: Chị Lường Ngọc A1 - SN 1994.

Trú tại: Đội 20, xã T2, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23/12/2017 nhận lệnh phân công công tác của Giám đốc Bưu Điện tỉnh Điện Biên, Lò Văn H là lái xe của Trung tâm khai thác vận chuyển thuộc Bưu Điện tỉnh Điện Biên H đã điều khiển xe ô tô Biển kiểm soát 27H - 2515 từ Bưu điện huyện N về Bưu điện tỉnh Điện Biên, trên xe còn có Lường Ngọc A1 sinh năm 1994 trú tại đội 20, xã T2, huyện Đ là nhân viên Bưu Điện huyện N đi cùng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày khi H điều khiển xe ô tô về đến Km 162 + 100 Quốc lộ 12 thuộc địa phận bản H1, xã M, huyện Đ, H đã điều khiển xe ô tô đã đi sang phần đường bên trái theo chiều đi nên xe ô tô đã va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 27B1 – 523.44 do Tòng Văn T, sinh năm 1995 trú tại đội 9A, xã T, huyện Đ điều khiển theo hướng ngược lại, hậu quả làm Tòng Văn T bị thương nặng phải điều trị tại Bệnh Viện đa khoa tỉnh Điện Biên từ ngày 23/12/2017 đến ngày 28/02/2018 Tòng Văn T tử vong tại nhà riêng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường ngày 23/12/2017 xác định: Địa điểm vụ tai nạn xảy ra tại km 162+100 Quốc lộ 12 thuộc địa phận Bản H1, xã M, huyện Đ là đoạn đường cong trái theo hướng M đi Thành phố Đ mặt đường rải nhựa áp phan, có vạch sơn màu trắng đứt quãng chia lòng đường thành 2 phần riêng biệt. Lòng đường rộng 7,9 m, lề đường bên trái theo hướng M về thành phố Đ rộng 1,7 m, tiếp giáp là rãnh thoát nước có bề rộng 1,2 m, sâu 0,45 m. Lề đường bên phải rộng 1,7 m, lấy hướng Thành phố Đ đi M và cột mốc H1/162 làm chuẩn. Tại hiện trường để lại 6 vết liên quan đến tai nạn giao thông. Trên cơ sở kết quả khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ thu thập được xác định: Điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô biển kiểm soát 27H - 2515 và xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 523.44 là vị trí số 01 trên sơ đồ hiện trường. Vị trí số 01 là vết cày hình chữ C xác định là vết vành bánh trước xe mô tô có diện 0,4 x 0,42 m rộng 0,05 m nối với vết cày xác định do trục bánh trước xe tạo thành có diện 25 x 0,03 m; tâm vết 01 đến mép đường phải là 2,98 m; điểm cuối vết số 01 nằm trên mép đường nhựa trái, từ điểm đầu vết số 01 đến cột mốc H1/162 là là 9,25 m.

Kết quả khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông xác định điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô mang biển kiểm soát 27H - 2515 và xe mô tô mang biển kiểm soát 27B1 - 523.44 là điểm đầu ba đờ sốc phía trước bên trái của xe ô tô Kết luận giám định pháp y về tử thi số 24/TT ngày 05/3/2018 của Trung tâm pháp y Sở y Tế tỉnh Điện Biên kết luận: Nguyên nhân chết của Tòng Văn T là do: Suy kiệt cơ thể nặng/Đa chấn thương (Chấn thương sọ não, chấn thương cột sống cổ, gãy 2 xương đùi).

Kết luận định giá tài sản số 03 ngày 12/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự huyện Đ xác định: Giá trị thiệt hại của xe ô tô biển kiểm soát 27H1 - 2515 và giá trị thiệt hại của xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 523.44 là 14.330.000 đồng (Mười bốn triệu, ba trăm ba mươi ngàn đồng) Căn cứ trên kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông, kết luận giám định pháp y về tử thi và các tài liệu chứng cứ khác đã kết luận: Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông là do Lò Văn H khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông đi sang phần đường bên trái theo chiều đi của mình, đi không đúng phần đường quy định dẫn đến va chạm và gây tai nạn giao thông, vi phạm vào khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ:

"Điều 9. Quy tắc chung: 1. Người tham gia giao thông pH đi bên pH theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và pH chấp hành hệ thống biển báo hiệu đường bộ" Tại bản Cáo trạng số: 128/CT-VKSĐB ngày 25/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội: "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 202/Bộ luật Hình sự 1999

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 202/BLHS năm 1999; Điều 31/BLHS năm 1999; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” .

Giao bị cáo Lò Văn H cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện Đ giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 202 và khoản 3 Điều 31/BLHS năm 1999.

Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc trả lại các tài sản, đồ vật, tài liệu cho ông Hà Quang H2, bà Quàng Thị C mà cơ quan cảnh sát Điều tra đã thu giữ theo Quyết định xử lý vật chứng số 09 ngày 13/02/2018 và số 24 ngày 24/4/2018 của Cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Đ.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo pH chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố. Do chủ quan và thiếu ý thức tuân thủ quy tắc giao thông đã điều khiển xe ô tô gây tai nạn làm một người chết và thiệt hại về tài sản là 14.330.000 đồng (Mười bốn triệu, ba trăm ba mươi ngàn đồng). Bị cáo và gia đình đã thỏa thuận bồi thường dân sự cho gia đình bị hại số tiền 176.000.000 đồng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp cho người bị hại là bà Quàng Thị C có đơn xin xét xử vắng mặt: Bị cáo Lò Văn H cùng gia đình đã bồi thường thiệt hại cho gia đình Tòng Văn T số tiền 176.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi sáu triệu đồng), bà Chựa không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự, bà đề nghị Tòa án xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

Ông Hà Quang H2 là đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự có đơn xin xét xử vắng mặt: Về trách nhiệm dân sự, cơ quan Bưu điện tỉnh Điện Biên đã có quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với bị cáo Lò Văn H và giải quyết mọi chế độ và quyền lợi liên quan theo hợp đồng lao động, ông Hợp không yêu cầu bị cáo pH bồi thường thiệt hại về tài sản do hư hỏng chiếc xe ô tô theo kết luận định giá tài sản, ông không có yêu cầu gì thêm. Về thanh toán tiền bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo giấy chứng nhận bảo hiểm mà Bưu Điện tỉnh Điện Biên đã ký với Công ty Bảo hiểm Tây Bắc (PTI), ngày 05/7/2018 Công ty bảo hiểm Tây Bắc đã chuyển cho Bưu Điện tỉnh Điện Biên số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), ông không có ý kiến gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Lại Thị A là đại diện của Công ty bảo hiểm Bưu Điện Tây Băc có Văn phòng tại Điện Biên có đơn xin xét xử vắng mặt: Theo Giấy chứng nhận bảo hiểm số BB 160186783 mà Công ty đã ký với chủ xe đồng thời là người thụ hưởng là Bưu Điện tỉnh Điện Biên. Ngày 05 tháng 7 năm 2018 Công ty bảo hiểm thực hiện xong nghĩa vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự với chủ xe ô tô 27 H - 2515 là người được bảo hiểm đồng thời là người thụ hưởng là Bưu điện tỉnh Điện Biên với số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 23/12/2017 tại Km 162 + 100 Quốc lộ 12 thuộc địa phận bản H1, xã M, huyện Đ, Bị cáo Lò Văn H đã điều khiển xe ô tô đã đi sang phần đường bên trái theo chiều đi của mình nên xe ô tô đã va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 27B1 - 523.44 do Tòng Văn T sinh năm 1995 trú tại đội 9A, xã T, huyện Đ điều khiển theo hướng ngược lại, hậu quả làm Tòng Văn T bị thương nặng phải điều trị tại Bệnh Viện đa khoa tỉnh Điện Biên từ ngày 23/12/2017 đến ngày 28/02/2018 Tòng Văn T tử vong tại nhà riêng. Hành vi của bị cáo được chứng minh tại biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông, kết luận giám định pháp y về tử thi, kết luận định giá tài sản, các biên bản ghi lời khai và các tài liệu chứng cứ khác đã kết luận hành vi của bị cáo đã vi phạm vi phạm vào khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ, đã gây thiệt hại về tài sản cho xe ô tô và xe mô tô là 14.330.000 đồng, gây ra cái chết cho anh Tòng Văn T. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202/BLHS năm 1999.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây thiệt hại về tài sản cho cá nhân và tổ chức, gây thiệt hạ cho tính mạng của người khác.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã gây tai nạn hậu quả làm một người chết và thiệt hại về tài sản số tiền 14.330.000 đồng. Hành vi của bị cáo thuộc khoản 1 Điều 202/BLHS năm 1999 với mức hình phạt từ phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên học hết lớp 12/12 sau đó đến năm 2011 đi học tại trường trung cấp y dược tỉnh Hà Nam đến năm 2013 tốt nghiệp. Năm 2016 đi học và thi được giấy phép lái xe hạng C. Ngày 01/9/2017 được Bưu Điện tỉnh Điện Biên tuyển dụng vào làm lái xe. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo cùng gia đình đã tích cực tham gia cứu chữa và bồi thường toàn bộ số tiền chi phí điều trị, mai tang phí, tiền tổn thất về tinh thần và tài sản thiệt hại tổng số tiền là 176.000.000 đồng. Đại diện gia đình bị hại là bà Quàng Thị C có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và tại đơn xin xét xử vắng mặt có xin giảm nhẹ tội cho bị cáo, HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

HĐXX căn cứ vào tính chất và mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Căn cứ vào Điều 31/BLHS năm 1999 xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mà chỉ cần áp dụng mức hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ để răn đe, giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng mức hình phạt cải tạo không giam giữ là có căn cứ chấp nhận.

{5}. Về trách nhiệm dân sự và các vấn đề liên quan: Bị cáo Lò Văn H cùng gia đình đã bồi thường thiệt hại cho gia đình Tòng Văn T số tiền 176.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi sáu triệu đồng), gia đình bị hại không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự, xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận về dân sự đúng quy định của pháp luật, HĐXX căn cứ vào các Điều 584, Điều 585, Điều 591/BLDS năm 2015 chấp nhận sự thỏa thuận của các bên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Công ty bảo hiểm Bưu điện Tây Bắc mà đại diện là Bảo hiểm bưu điện PTI Biện Biên có đơn xin xét xử vắng mặt: Về phần trách nhiệm dân sự Công ty bảo hiểm Tây bắc đã chi trả cho Bưu điện Điện Biên số tiền 100.000.000 đồng vào ngày 05/7/2018. Bưu điện tỉnh Điện Biên đã nhận đủ số tiền 100.000.000 đồng, không có yêu cầu gì khác. HĐXX căn cứ vào các Điều 17, 18, 52, 54 và 55 Luật kinh doanh bảo hiểm xét thấy Công ty bảo hiểm đã thực hiện xong nghĩa vụ chi trả bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên được bảo hiểm đã nhất trí nên HĐXX chấp nhận.

Bị đơn dân sự là Bưu điện tỉnh Điện Biên có đơn xin xét xử vắng mặt: Đối với Lò Văn H đã có quyết định chấm dứt hợp đồng lao động, H đã bàn giao toàn bộ tài sản và công việc cho cơ quan, ông không có yêu cầu gì thêm về dân sự, HĐXX chấp nhận [6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 202 BLHS: Bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Song bị cáo Lò Văn H đã bị Bưu điện tỉnh Điện Biên chấm dứt hợp đồng lao động, hiện bị cáo chưa có công việc gì khác, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Theo khoản 3 Điều 31/BLHS năm 1999 bị cáo có thể bị áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập song xét thấy hiện tại bị cáo đã bị chấm dứt hợp đồng lao động hiện nay chưa thu nhập gì khác, sống nhờ vào gia đình nên HĐXX không áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106/BLTTHS năm 2015: Chấp nhận các biên bản trao trả tài sản của cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Đ cho Bưu Điện tỉnh Điện Biên và gia đình bị hại theo các biên bản trao trả đồ vật, tài liệu ngày 13/02/2018 và ngày 24/4/2018 cho ông Hà Quang H2; Biên bản trao trả tài sản ngày 16/5/2018 cho bà Quàng Thị C.

[8] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 202/BLHS năm 1999; Điểm b, điểm s Khoản 1 Điều 51/ BLHS năm 2015; Điều 31/BLHS năm 1999:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn H phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn H 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã P, huyện Đ nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.

Giao bị cáo Lò Văn H cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện Đ giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, Điều 585, Điều 591/Bộ luật Dân sự 2015: Chấp nhận sự thỏa thuận về bồi thường dân sự giữa gia đình bị cáo và gia đình bị hại.

4. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 21/8/2018. Người đại diện hợp pháp cho người bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 195/2018/HS-ST ngày 21/08/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:195/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về