Bản án 197/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 197/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 21/11/2018 tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 679/2018/TLST–HNGĐ ngày 13/9/2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 201/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 206/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/11/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975.

Địa chỉ: tổ A, ấp SC, xã BC, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1969.

Địa chỉ: tổ A, ấp SC, xã BC, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Bà L có mặt, ông T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn, bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà và ông Nguyễn Thanh T tự nguyện kết hôn với nhau năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bàu Cạn. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Ông T đã nhiều lần đánh, bóp cổ bà. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nhiều năm. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin được ly hôn với ông T.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Thanh T1, sinh ngày 08/7/1995; Nguyễn Thanh L1, sinh ngày 21/11/1997. Các cháu đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nuôi sống bản thân.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.

* Ông Nguyễn Thanh T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên không có lời khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành có ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký: Về việc thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách tố tụng, về việc xác minh, thu thập các tài liệu chứng cứ vụ án và thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử đều được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

- Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà L và ông T được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được pháp luật bảo vệ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị L.

 Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Thanh T1, sinh ngày 08/7/1995; Nguyễn Thanh L1, sinh ngày 21/11/1997. Các cháu đều đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Thanh T hiện đang cư trú tại xã BC, huyện LT, tỉnh Đồng Nai nên Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật: bà Nguyễn Thị L khởi kiện xin được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T. Tòa án nhân dân huyện Long Thành căn cứ vào khoản 1Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ là “Tranh chấp ly hôn”.

- Bị đơn ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

 [2] Nội dụng vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Thanh T tự nguyện kết hôn với nhau năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Hôn nhân giữa bà L và ông T là hôn nhân hợp pháp nên khi có yêu cầu ly hôn, Tòa án áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

Theo bà L thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do quá trình chung sống ông T đã nhiều lần đánh đập, bóp cổ bà.

Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã tiến hành xác minh thì được đại diện địa phương cho biết: Tháng 8/2018, bà L có làm đơn trình báo với Công an về việc chồng là ông Nguyễn Thanh T có hành vi đánh bà L. Hiện nay, bà L và ông T không sống chung với nhau nữa.

Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông T là có thật và hiện đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập hợp lệ, giao thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhằm hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng ông T vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Việc ông T cố tình vắng mặt chứng tỏ ông T không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình nữa.

Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã động viên để bà L rút đơn khởi kiện để vợ chồng đoàn tụ nhưng bà L xác định tình cảm vợ chồng không còn và vẫn kiên quyết xin ly hôn.

Nhận thấy, mâu thuẫn giữa bà L và ông T là có thật, ông T cũng không quan tâm đến hạnh phúc gia đình, tình cảm của bà L đối với ông T không còn, nếu có tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà L, cho bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T là phù hợp.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Thanh T1, sinh ngày 08/7/1995; Nguyễn Thanh L1, sinh ngày 21/11/1997. Cháu T1, L1 đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chưa có ý kiến của ông Nguyễn Thanh T nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

 [3] Về án phí HNGĐ- ST: bà L phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 203, 220; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228, 235, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.

Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông NguyễnThanh T.

Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Thanh T1, sinh ngày 08/7/1995; Nguyễn Thanh L1, sinh ngày 21/11/1997.

Các con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí HNGĐ – ST: bà L phải nộp 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp tại cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên lai thu số 006726 ngày 10/9/2018.

Bà L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 197/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:197/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về