Bản án 20/2017/DS-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hụi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 20/2017/DS-ST NGÀY 31/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỤI 

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 33/2017/TLST - DS ngày 29 tháng 3 năm 2017, về việc “Tranh chấp hụi” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2017/QĐST – DS ngày 26 tháng 6 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số 25/2017/QĐST-DS ngày 19/7/2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Hồ Anh D, sinh năm 1954.

Địa chỉ: Đường Đ, phường A, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lƣu Trí D, sinh năm 1959 (có mặt).

Địa chỉ: đường P, khóm B, phường C, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: 1. Bà Trần Thị V, sinh năm 1966 (có mặt);

2. Ông Lưu Kính L, sinh năm 1968 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện X, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 20/3/2017, các phiên hòa giải, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên toà ngày hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Lưu Trí D trình bày:

Vợ chồng bà Trần Thị V và ông Lưu Kính  L làm chủ hụi, ông Hồ Anh D có tham gia chơi hụi như sau:

Dây hụi mở ngày 11/10/2015, có 39 thành viên, mỗi chân hụi 500.000 đồng, ông D tham gia 20 chân hụi, đã hốt trước 03 chân, còn lại 17 chân. Ông D đóng được cho vợ chồng bà V được 30 lần, mỗi lần đóng 8.330.000 đồng/17 chân với tổng số tiền đóng được là 249.900.000 đồng trừ 03 chân hụi đã hốt trước 15.000.000 đồng, còn thiếu lại 234.900.000 đồng. Bà V có trả cho ông D được 12.000.000 đồng, đến này 31/8/2016 thì ngưng hụi. Số tiền còn lại 222.900.000 đồng vợ chồng bà V không hoàn trả lại cho ông D.

Nay ông D yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L phải hoàn trả cho ông D số tiền hụi là 222.900.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

- Tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn bà Trần Thị V trình bày:

Bà làm chủ hụi, ông Hồ Anh D tham gia chơi hụi như sau:

Dây hụi mở ngày 11/10/2015, có 39 thành viên, ông D vô 17 chân hụi, mỗi chân hụi là 500.000 đồng. Ông D đóng được 30 lần: 30 lần x 400.000 đồng/lần = 12.000.000  đồng, trừ tiền cò 300.000 đồng  = 11.700.000 đồng x 17 chân = 198.900.000 đồng.

Dây hụi này ông D hốt 03 chân nên trừ hụi chết 15.000.000 đồng = 183.900.000 đồng. Sau đó bà có trả cho ông D được tổng số tiền là 12.000.000 đồng nên số tiền bà còn nợ ông D hiện nay là 171.900.000 đồng.

Nay bà chỉ đồng ý trả cho ông D số tiền hụi sống là 171.900.000 đồng nhưng hiện nay hoàn cảnh gia đình bà khó khăn không có khả năng trả nợ. Số tiền ông D yêu cầu bà trả là 222.900.000 đồng là tiền hụi chết không phải hụi sống. Bà và ông L là vợ chồng nhưng số tiền hụi do bà V làm chủ hụi có được bà V dùng để chi sài cá nhân và do bị người khác giật hụi nên bà không có tiền trả cho ông D. Ông L không tham gia chơi hụi nên bà không yêu cầu ông L cùng trả tiền nợ hụi với bà.

- Đối với bị đơn ông Lưu Kính L: Ông L đã được Tòa án cấp tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Tại đơn yêu cầu ngày 14/4/2017, ông Lưu Kính L trình bày ông không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn vì ông không biết chơi hụi và cũng không tham gia chơi hụi.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên trình bày: Trong quá trình thụ lý và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn là ông Lưu Kính L, Tòa án triệu tập và tống đạt hợp lệ các văn bản theo thủ tục tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do là chưa chấp hành đúng theo quy định pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn là Trần Thị V và Lưu Kính L có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn số tiền hụi là 171.900.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Lưu Kính L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không lý do. Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của BLTTDS năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Lưu Kính L.

Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền hụi là 222.900.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo lãi suất 1,66%/tháng nhưng tại phiên tòa ngày hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút yêu cầu tính lãi, chỉ yêu cầu các bị đơn trả số tiền hụi còn thiếu là 222.900.000 đồng. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn.

- Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền hụi là 222.900.000 đồng. Tuy nhiên bà Trần Thị V chỉ đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền hụi sống là 171.900.000 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy, Tại biên bản hòa giải ngày 13/3/2017 của tổ hòa giải ấp T, bà V thừa nhận số tiền còn nợ ông D là 222.900.000 đồng và yêu cầu được trả trong vòng 01 năm nhưng ông D không đồng ý. Ngoài ra theo văn bản bà V đã cung cấp cho Tòa án tại bút lục số 27 và tại phiên tòa ngày hôm nay bà V thống nhất số tiền 222.900.000 đồng mà hiện nguyên đơn yêu cầu bà trả đó là tiền hụi chết mà bà V còn thiếu nguyên đơn nhưng bà V chỉ đồng ý trả số tiền hụi sống là 171.900.000 đồng. Tòa án đã ra thông báo về việc cung cấp chứng cứ yêu cầu bà V và ông L có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền hụi mà bị đơn chỉ còn nợ nguyên đơn là 171.900.000 đồng nhưng phía bị đơn cũng không cung cấp được. Do đó, việc bà V còn thiếu ông D số tiền hụi 222.900.000 đồng là có căn cứ.

Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường thì chủ họ (chủ hụi) phải có nghĩa vụ “giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ”. Bà Trần Thị V là chủ hụi, đã thu hụi của nguyên đơn và hưởng hoa hồng (tiền cò) nhưng khi nguyên đơn được lĩnh hụi thì bà V chưa giao phần hụi được lĩnh cho nguyên đơn là vi phạm theo Điều 15 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP.

Bị đơn bà Trần Thị V trình bày bà và ông L là vợ chồng nhưng số tiền hụi do bà làm chủ hụi có được bà dùng để chi sài cá nhân và do bị người khác giật hụi nên bà không có tiền trả cho nguyên đơn. Ông L không tham gia chơi hụi nên bà không yêu cầu ông L cùng trả tiền nợ hụi với bà. Ông Lưu Kính L cũng trình bày ông không biết chơi hụi và không có tham gia chơi hụi nên ông không đồng ý trả tiền hụi theo yêu cầu nguyên đơn. Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tuy nhiên bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L là vợ chồng nhưng cả bà V và ông L đều không chứng minh được việc sử dụng tiền chơi hụi sử dụng vào mục đích riêng của bà V, không sử dụng vào sinh hoạt thiết yếu của gia đình và trong thời gian bà V làm chủ hụi thì ông L đều biết, do vậy ông L phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cùng bà V là có cơ sở.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L phải trả số tiền hụi là 222.900.000 đồng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại Điều  147 của Bộ luật tố tụng dân sự và theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về vấn đề kiểm sát viên nêu là có căn cứ Hội đồng xét xử ghi nhận. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 14 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 224; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điêu 271; khoản 1,3 Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng khoản 3 Điều 471; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Điều 9; Điều 15 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Anh D.

Buộc bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn bà ông Hồ Anh D số tiền hụi còn thiếu là 222.900.000 đồng.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tính lãi suất. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 11.145.000 đồng (mười một triệu một trăm bốn mươi lăm ngàn đồng).

- Nguyên đơn ông Hồ Anh D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 6.312.528 đồng (sáu triệu ba trăm mười hai ngàn năm trăm hai mươi tám đồng) theo biên lai thu tiền số 0005164 ngày 28/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên (do ông Lưu Trí D nộp tiền).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Hồ Anh D có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L còn phải trả lãi cho ông Hồ Anh D theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đối với số tiền chậm thi hành án.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2017/DS-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hụi

Số hiệu:20/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về