Bản án 20/2018/HSST ngày 05/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 20/2018/HSST NGÀY 05/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05/6/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2018/TLST-HS ngày 14/5/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST-HS ngày 24/5/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Thị T; Tên gọi khác: Không

Sinh năm: 1971, tại huyện M, tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Không; Dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn E (đã chết) và con bà Quàng Thị M (đã chết); có chồng là Quàng Văn E1, sinh năm 1976 và có 02 người con, con lớn đã chết, con nhỏ sinh năm 2000; tiền án: không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2018 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch cho bị cáo Quàng Thị T là ông: Lò Văn N

Sinh năm 1986

Trú tại: Tổ d, thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07h ngày 19/3/2018 tại đoạn đường Bản N, xã M, huyện M T gặp một người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) qua trao đổi T đã mua được 01(một) gói Heroine với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng) được gói trong mảnh túi nilon màu hồng. T cầm và cất giấu vào túi vải đeo bên hông đi về nhà, còn người đàn ông đó đi đâu thì T không biết. Khi về đến nhà T dùng tay cấu nhỏ Heroine ra và lấy nilon gói thành 11 gói nhỏ cho vào lọ nhựa mầu trắng rồi cất giấu vào túi áo khoác bên phải đang mặc, mục đích để cho chồng sử dụng. Đến khoảng 11h30 ngày 22/3/2018 T đang ở nhà tại Bản N, xã M thì gặp tổ công tác Công an Đồn Búng Lao và Công an xã M đang làm nhiệm vụ kiểm tra đã thu của T 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 11 gói nhỏ Heroine. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng hồi 17 giờ 35 phút ngày 22/3/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Ảng đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Quàng Thị T có trọng lượng là 0,83 gam, trích mẫu gửi giám định 0,07 gam (không phẩy không bẩy gam).

Tại Bản kết luận giám định số: 357/GĐ-PC54 ngày 30/3/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận số mẫu vật gửi giám định thu giữ của Quàng Thị T là: 0,83 gam là Heroine: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 20, danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại bản Cáo trạng số 14/CT-VKS-MA ngày 14/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Quàng Thị T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Quàng Thị T từ 18 tháng đến 22 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,76g (không phẩy bẩy sáu gam) Heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,07 gam (không phẩy không bẩy gam) không hoàn mẫu sau giám định.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo sống ở xã có điều kiện đặc biệt khó khăn, đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Quàng Thị T cũng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Bị cáo đã đi mua Heroine về để cho chồng sử dụng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Ảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 22/3/2018 bị cáo T đã có hành vi tàng trữ 0,83 gam Heroine với mục đích cho chồng bị cáo sử dụng ngoài ra không có mục đích nào khác. Hành vi của bị cáo Quàng Thị T đã đầy đủ yếu tối cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 của BLHS năm 2015.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ 0,83 gam Heroine để cho chồng sử dụng. Trọng lượng Heroine thuộc Điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung theo luật số 12/2017QH14 ngày 20/6/2017 đã có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2018 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;"

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Quàng Thị T sinh ra và lớn lên tại huyện M, tỉnh Điện Biên, được bố mẹ nuôi dưỡng và không được đi học ở nhà tham gia lao động sản xuất cùng gia đình. Đến năm 1989 sống chung như vợ chồng với anh Lò Văn Đ, năm 2000 anh Đ chết. Đến 2001 sống chung như vợ chồng với anh Lò Văn A, năm 2002 anh A chết. Đến năm 2017 kết hôn với anh Quàng Văn E1. Mặc dù bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ Heroine là vi phạm pháp luật nhưng là người vợ nên bị cáo vẫn cố ý tàng trữ Heroine mục đích cho chồng sử dụng; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo Điều 52 của BLHS. Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

[5] Bị cáo khai mua Heroine về cho chồng là Quàng Văn E1 sử dụng, hiện nay anh E1 không có mặt tại địa phương, bị cáo khai việc mua bán, tàng trữ Heroine anh É không được biết và anh E1 cũng chưa được sử dụng nên HĐXX không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 của BLHS. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,76 gam Heroine, trích gửi giám định 0,07 gam không hoàn lại mẫu; 01 lọ nhựa mầu trắng đã qua sử dụng.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng bị cáo thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Thị T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51của BLHS: Xử phạt bị cáo Quàng Thị T 17 (Mười bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22 tháng 3 năm 2018.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu để tiêu hủy: 0,76g Heroine; 01 lọ nhựa màu trắng có nắp nhựa màu trắng (Theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án hồi 09 giờ 00 phút ngày 14/5/2018).

3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Thị T.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 05/6/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HSST ngày 05/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về