Bản án 20/2018/HS-ST ngày 17/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17/5/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý /2018/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 23/2018/HSST-QĐ ngày 26 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo: Lê Anh V, sinh ngày 23/02/1992, tại: Huyện Q, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện P, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Anh P và bà Nguyễn Thị Ngọc A; bị cáo chưa có vợ; tiền án: 01 tiền án (tại Bản án hình sự sơ thẩm 44/2016/HSST, ngày 13/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện Chư pưh, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”); tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 07/9/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 13(mười ba) tháng 22 (hai mươi hai) ngày về tội “Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ ngày 31/01/2018, tạm giam ngày 06/02/2018. Bị cáo đang bị tạm giam. Có mặt.

-Bị hại: Chị Rah Lan Đ, sinh năm 1981

Trú tại: Làng B, thị trấn S, huyện S, Gia Lai. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người phiên dịch tiếng Jarai: Bà Nay C; Công tác tại: Bệnh viện đa khoa huyện Chư Sê, Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có quen biết với nhau từ trước qua mạng xã hội “Zalo” nên Lê Anh V đã hẹn gặp chị Rah Lan Đ tại nhà nghỉ S, thuộc thôn Z, thị trấn S. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 27/01/2018, chị Rah Lan Đ đến nhà nghỉ S và gặp Lê Anh V tại phòng 201. Tại đây, hai người cùng nằm trong phòng xem bóng đá và quan hệ tình dục với nhau. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi quan hệ tình dục xong, Lê Anh V nảy sinh ý định muốn trộm cắp tài sản của chị Rah Lan Đ nên Việt bảo chị Đ đi vào phòng vệ sinh để tắm rửa. Trong khi chị Đ đang ở trong phòng vệ sinh thì Lê Anh V đã trộm cắp 01 điện thoại di động, hiệu OPPO F1S và 01 xe mô tô, nhãn hiệu Attila Elizabet, biển số 81B1 – 014.XX của chị Rah Lan Đ rồi điều khiển xe mô tô đến gửi tại nhà gửi xe của Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai, còn chiếc điện thoại di động OPPO F1S V đem bán tại một cửa hàng điện thoại di động ở TP. K với giá 2.700.000 đ (Hai triệu bảy trăm ngàn đồng).

Sau khi sự việc xảy ra, chị Rah Lan Đ đã trình báo sự việc đến cơ quan Công an. Ngày 31/01/2018, Lê Anh V đã đến Công an xã B, huyện S đầu thú và khai báo toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như trên. Lê Anh V đã tự nguyện giao nộp xe mô tô BKS: 81B1 – 014.XX.

Ngày 06/02/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Sê kết luận: 01 xe mô tô BKS 81B1–014.XX có giá trị là 8.967.000đ(Tám triệu chín trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) và 01 điện thoại di động OPPO F1S có giá trị 4.792.000đ(Bốn triệu bảy trăm chín mươi hai ngàn đồng). Tổng giá trị các tài sản mà Lê Anh V đã chiếm đoạt  của chị Rah Lan Đ là: 13.759.000đ(Mười ba triệu bảy trăm năm mươi chín ngàn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 06/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Lê Anh V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm  b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ  18 (mười tám)  đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lợi dụng sơ hở khi chị Đ đang tắm, Lê Anh V đã trộm cắp của chị Đ 01 điện thoại di động màu trắng, hiệu OPPO F1S và 01 xe mô tô, nhãn hiệu Attila Elizabet, biển số 81B1 –014.XX với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 13.759.000đ (Mười ba triệu bảy trăm năm mươi chín ngàn đồng).

Hành vi trên của Lê Anh V đã đủ yếu tố cấu thành tội“Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 07/9/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 13(mười ba) tháng 22(hai mươi hai) ngày về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích. Hiện bị cáo có 01 tiền án tại Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2016/HSST, ngày 13/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện Chư pưh, tỉnh Gia Lai  đã xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích thì bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của chị Đ. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại được bị hại làm đơn bãi nại, sau khi phạm tội đã ra đầu thú giao nộp một phần tài sản trộm cắp để trả lại cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm  b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần mức hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4].Về trách nhiệm dân sự: Tài sản là chiếc xe mô tô BKS81B1-014.XX đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Gia đình của bị cáo Lê Anh V đã thỏa thuận bồi thường cho chị Rah Lan Đ 01 chiếc điện thoại khác có giá trị tương đương chiếc điện thoại OPPO F1S. Tại phiên tòa chị Rah Lan Đ không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

[5]. về vật chứng của vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô BKS 81B1- 014.XX là của chị Rah Lan Đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Sê đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả cho bị hại là phù hợp. Đối với 01 chiếc điện thoại di động OPPO F1S, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Sê đã tiến hành xác minh nhưng hiện nay không thu giữ được nên miễn xét.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,  nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Anh V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm  b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Lê Anh V 15 (Mười lăm) tháng  tù. Thời hạn từ tính kể từ ngày tạm giữ 31/01/2018.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều  136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án: Xử buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, bị hại có quyền kháng cáo bản án về phần bồi thường và hình phạt đối với bị cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 17/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về